Tình ca người thất trận!
Có thể bạn quan tâmTàn cuộc chiến anh còn lại gì? cùm gông, tù ngục, đời biệt ly. công danh ngày cũ tan như khói tan vỡ tình ta, đứt ruột, anh đi.
Bạn đang xem: Lén Lút Mặc Bikini Nhảy Sexy Phục Vụ Người Xem ở Bể Bơi, Nữ YouTuber Bất Ngờ Bị Phát Hiện Hoàng Hôn, Bố Của Chạy Lay Người.
Em không đợi nữa, không chờ nữa thất trận đi đày, em xa anh. Em không đợi nữa, không chờ nữa ngọn lửa tình em đã rụi tàn. Ái ân nồng ấm yêu ngày cũ còn lại gì đâu? chỉ tro than!
*** Năm năm về, em không nhận ra anh ngõ tang thương, phố phường xa lạ cơn địa chấn miền Nam mình tơi tả binh lửa tan rồi tan cả tình ta.
Giã biệt cố nhân, hỏi em tình cũ! bên chồng vui, em còn nhớ anh không? thôi ‘Biển’ ơi! chữ tình là mộng; đời hợp tan, tan hợp hết trông mong!
Viết cho ngôi trường đã bị mất tên
Trường xưa còn đó, bao thương nhớ! từng gốc phượng đau, rụng lá sầu. phấn trắng, bảng đen, mình một thuở trôi vào quá khứ, cuộc bể dâu.
Buc giảng ngày nao, ta đứng đó, trầm ngâm trong gió đợi thu về. lá rụng ngoài sân như muốn tỏ: chào cố nhân! người trở lại xóm quê.
Em hỏi: ta làm gì khi xa quê hương? ta chỉ là nhà thơ khốn khổ, với những bài thơ buồn. (Thơ ta điền vào những trang còn trống chổ em đọc để mà quên!)
Em hỏi: thơ ta nói những gì? toàn là tan vỡ với chia ly. Đời toàn mất mát! vui sao được? ngay chính trường ta cũng mất tên.
Ôi trường ta tang thương! theo vận nước nhiễu nhương! học trò năm cũ giờ đâu cả? em giạt về đâu mấy nẻo đường?
Thơ ta, em đọc, rồi cũng quên. vì không có gì đáng nhớ. Đời ta toàn lỡ dở; đời ta toàn xót xa đón xe trễ chuyến, ra ga trễ tàu.
Trường xưa! Ta xót xa đau!
Đoàn Xuân Thu. Melbourne
Đời như một vở cải lương!
Hồi xưa bà con mình gọi mấy đoàn cải lương là gánh hát. Vì mỗi lần đi lưu diễn, mai chỗ nầy mốt chỗ kia, ngoài xe bò chở phông màn và vợ con ông bầu gánh, đào kép tự gánh y trang của mình, rồi lục tục quảy theo sau.
Gánh hát thời đó cũng có bảng hiệu đàng hoàng nhưng bà con mình lại thích gọi là gánh bà bầu Thơ tức đoàn Thanh Minh Thanh Nga, gánh bầu Ba Bản tức đoàn Thủ Ðô, gánh bầu Xuân tức đoàn Dạ Lý Hương, hay gánh bầu Long tức 5 đoàn Kim Chung 1, 2, 3, 4 và 5.
Sau nầy, mấy ông ký giả trên mục sân khấu kịch trường về cải lương mới dùng chữ đại ban nếu gánh hát lớn, trung ban nếu gánh hát vừa vừa. Còn những gánh nhỏ, mà ông bầu già, đóng vai lão, con gái làm đào chánh, con rể làm kép chánh thì gọi là gánh bầu Tèo, tức gánh hát nghèo, dọn từ nhà lồng chợ tới đình làng để trình diễn.
Gánh hát thì phải có tuồng tích do mấy ông thầy tuồng, sau nầy trân trọng gọi là soạn giả viết ra, phân vai, kiêm chỉ đạo diễn xuất (tức vai trò đạo diễn sau nầy).
Ngoài thầy tuồng là người có ăn học (mới biết chữ mà viết tuồng chớ) phải kể tới kép chánh và đào chánh (có người mù chữ).
Kép cũng có hai loại: Kép muồi, chuyên môn đóng vai hoàng tử không hè (Út Trà Ôn, Thành Ðược).
Phản diện với kép muồi là kép độc, đóng vai ác thôi hết biết (Hoàng Giang, Văn Ngà, Trường Xuân)…
Ðào cũng có hai loại: Ðào thương (Út Bạch Lan, Thanh Nga, Phượng Liên), ra sân khấu là khóc bụp con mắt luôn, đôi khi khóc nhiều quá son phấn trôi đi, hết màn, phải chui vào hậu trường dặm mặt lại.
Phản diện với đào thương là đào lẳng (Hồng Nga, Thanh Nguyệt), vừa hát vừa nghiến răng trèo trẹo đóng những vai ghen tuông, đòi xởn tóc đào thương.
Trong vở hát nào cũng vậy, làm khán giả khóc lóc, chửi bới riết thì phải cho bà con cười chút chút cho thư giãn chớ. Người phụ trách cái nhiệm vụ nặng nề đó là vai hề, ăn khách không kém kép chánh, đào chánh là: hề Minh, hề Văn Hường, hề Thanh Việt, hề Văn Chung… chẳng hạn.
***
Nhớ thời hoàng kim của sân khấu cải lương, bà con khán giả mộ điệu miền Nam mình đã nuôi sống biết bao nhiêu người nghệ sĩ.
Không những đủ sống thôi mà những danh ca: Vua vọng cổ như Út Trà Ôn, Hữu Phước, Thành Ðược… trở nên giàu có, ở nhà lầu mặt tiền, đi xe hơi Huê Kỳ, vì tiền ký ‘công tra’ lên cả triệu đồng (số tiền rất lớn). Vì trúng số độc đắc kiến thiết quốc gia xây cửa xây nhà, lô độc đắc cũng chỉ 1 triệu đồng thôi.
Nhớ hồi nhỏ, đi học, thường lội bộ theo đường Phan Thanh Giản qua đường Nguyễn Thiện Thuật là phải đi ngang nhà ông Út Trà Ôn.
Ðôi khi thấy ổng đang ở trần, mặc cái quần tiều lỡ, mái tóc chải xước ra đằng sau, không có rẽ đường ngôi, nhưng có xức ‘bi-ăng-tin’ láng mượt… đang lấy vải chùi chiếc xe Huê Kỳ bóng lưỡng, bèn đứng lại nhìn.
Té ra mặt mày không tô son điểm phấn như lúc trình diễn trên sân khấu, ở đời thường, ổng xấu hoắc hè! He he!
Nhưng: “Than ôi! Thời vận bất tề”. Không phải ai đi hát cũng đều nổi danh, tiền vô như nước, nữ khán giả ái mộ cuồng nhiệt.
“U xàng u xáng u, xáng trên đầu ba bữa còn u” Bài bản phải vững vàng. Hát chạy chữ sao cũng đặng nhưng tới xề là phải nhịp song lang nghe cái cốc mới đặng nhe! Muốn ca diễn cho có nghệ thuật, làm khán giả hài lòng, bỏ tiền ra mua vé, đâu có dễ.
***
Gánh bầu Tèo nghèo hơn nhiều! Ghe hát vừa mới cắm sào bên dòng kinh Ngã bảy mà cô gái năm xưa hổng thấy ra chào… là cả gánh xúm lại khiêng phông màn lên bờ, lấy vải bố bao quanh nhà lồng chợ để đêm nay bổn ban sẽ ra mắt bà con cô bác xã nhà. Xong, ông bầu mướn một chiếc xe ngựa, treo hai cái bảng quảng cáo hai bên hông. Trên xe có cái trống chầu, một kép cơm (theo gánh hát làm kép chỉ để được ăn cơm), đánh thùng thùng từ đầu làng đến cuối xóm.
Ngựa bị ghìm cương, xe chạy chậm, con nít nó ùa theo reo hò tở mở, mừng gánh hát… mới ‘dzìa’.
Gánh bầu Tèo thường về làng vào tháng Mười Một âm lịch trước khi trời sắp đổ mưa; lúa đổ đầy bồ xong, bà con rảnh rang đến coi đông, nhưng khá lắm gánh hát lưu lại chưa tới một tuần thì vắng hoe, khán giả chỉ loe ngoe chừng chục mống.
Nghỉ hát, tiền chưa chạy đâu được để dọn đi xứ khác thì ông bầu cho đào kép tự kiếm việc mà làm. Ai mướn gì làm nấy như: gặt lúa, vác lúa, đi mót, đi câu, bắt cua, lưới cá.
Nên: “Bầu Tèo hát dở đừng lo. Sang năm hát khá được đi xe bò! Bầu Tèo hát dở đừng rầu. Sang năm hát khá được ngồi xe trâu!”
Ðời nghệ sĩ, nhứt là đào thương cũng ngắn ngủi, tới bốn mươi là quá ‘đát’, trừ trường hợp cực kỳ xuất sắc, thanh sắc vẹn toàn, nhưng nói chung bụi thời gian không ai phủi được, đành phải chuyển qua đào mụ, vai nhì, vai ba…Bèn lo xa, thôi kiếm một đại gia nào đó để nhờ vả tấm thân hầu đeo đuổi con đường nghệ thuật tới khi không còn hát nổi nữa! “Thiếu chi rau em ăn rau é, thiếu chi chồng em làm bé người ta!” (?!)
Vậy mà có người ác tâm, ác khẩu, rằng: ‘Xướng ca vô loại! Không thông cảm cho duyên kiếp cầm ca dâng hiến cho đời gì ráo trọi, nỡ bĩu môi chê rằng: “Mới là tiểu thơ đêm trước mà mơi hổng có gạo nấu à nghe, đừng bày đặt nhí nhảnh!”
***
Lại nhớ, gánh hát về nhà lồng chợ Cái Bè, năm 1958, thời ông Nguyễn Bá Cẩn đang ngồi quận, thuở thanh bình thạnh trị của miền Nam mình.
Ôi bà con vui hết biết! Tui cũng đi coi hát là phụ nhưng hẹn với em yêu là chánh! Chờ em cho mãn kiếp chờ, gần kéo màn rồi em mới chịu ló mặt ra, kẻo anh nóng lòng trông đợi bóng ‘chim’?! Tui nóng lòng thiệt nên làm hết chục mía ghim và hai lon đậu phộng nấu.
Khi khán giả đông bộn, tiếng gõ cồm cộp trên sàn sân khấu, bức màn nhung được kéo lên, hiện ra gác tía lầu son sáng choang dưới ánh đèn măng xông như thể ánh trăng rằm.
Mở đầu tuồng Phạm Công – Cúc Hoa là màn Nghi Xuân Tấn Lực, quần áo rách rưới tả tơi, vá chằng vá đụp, vẻ mặt thiểu não, tay cầm thau nhôm móp méo, dắt nhau chầm chậm quanh sân khấu, rồi xuống tới hàng ghế thượng hạng. Ðám khán giả nầy, chắc như bắp, là có tiền rủng rỉnh đây, ca điệu Xuân Tình: “Bà con cô bác dùm thương. Bố thí cho con một chén cơm thừa” “Tấn Lực ơi! Ráng nhịn đói chút xíu nữa nghe! Chừng nào bà con cho tiền, chị mua cơm đút em ăn!”
Bà con mếu máo, tháo kim Tây, găm túi áo khỉ, móc ra cho năm đồng nói: “Nè! Nghi Xuân! Chạy ra trước cửa rạp mua cho thằng Tấn Lực tô bánh canh giò heo ăn đỡ đi nhe! He he!”
Rồi giữa vở diễn, chờ chuyển màn, chuyển cảnh, cái ‘mi cà rô’ treo trên dây ròng rọc căng ngang, thả xuống trước miệng, ông bầu Bảy Cao của đoàn Hoa Sen, quần áo lớn chỉnh tề, thắt ‘cà ra oách’, kính thưa khán giả: tuồng ‘Tôn Tẫn giả điên’ sẽ hát đêm mai. Tiện thể, nghệ sĩ Bảy Cao xuống sáu câu vọng cổ, phựt đèn màu, bà con khán giả vỗ tay rào rào…
Lại nhớ năm 1960, tại rạp Ðồng Thinh, tỉnh lỵ Rạch Giá, đoàn Hữu Tâm của bầu Ba Khuê về, hát tuồng: “Nắm cơm chan máu” của đôi soạn giả Bạch Diệp và Minh Nguyên.
Trần Ai (kép Bửu Tài) phải đi ăn trộm về nuôi Ðỗ Lệ (đào Thanh Hương) bị thiên hạ đánh lỗ đầu, chảy máu…
Em yêu cảm động khóc thút thít, hỉ mũi rột rột… Thiệt là thấy mà gớm nhe!
***
Tháng Tư lại về trên quê người viễn xứ, lại nhớ biến cố năm xưa: “Tróc mã đề thương, ứ ư ứ ư…” “Cấp báo! Cấp báo!” “Ðiều chi?” “Dạ, chí nguy! Giặc Hung Nô vượt khỏi biên thùy. Ta, dũng tướng thảy đều tử trận…” “Lui!” “Thôi rồi!”
Nhưng “Họa phước đáo đầu chung hữu báo. Cao phi viễn tẩu giả nan tàng.”
(Ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác. Bay cao, chạy cho thiệt xa cũng không trốn đâu cho khỏi). “Kìa! Ma trêu trước cửa” “Nọ, quỷ lộng sau hè” .
Chữ rằng: “Quan nhất thời; Dân vạn đại!” Dẫu ‘quan anh’ có múa chàng múa tiên gì chăng đi nữa trong thời điên đảo thì đời quan cũng như một vở tuồng cải lương, trước sau cũng phải hạ màn, vãn hát chớ! Phải không thưa bà con?
đoàn xuân thu.
melbourne
Hồn cố thổ!
Tết nào cũng vậy, tệ nạn cờ bạc nó rộ lên như nấm mối gặp mưa. Sòng bầu cua, sòng tài xỉu ngoài xóm. Đang ăn, nhà cái chưa kịp chung tiền, ai đó hô ‘lính tới’ cả bọn chạy thục mạng. Sau mới biết tụi nó chơi đểu, ăn vùa thua giựt. Thiệt là tức trào máu họng
Còn bài xấu, cái đầu sù sụ con mắt trỏm lơ, mình đi phất phơ như con chó đói. Do đó lỡ binh xập xám, ba phé ba nơi hoài, đầu hôm xao xác bạc tốt như tiên, đến khuya không tiền bạc như chim cú.
Theo tui thì Tết đừng đánh bài là hay hơn hết. Lỡ mình ăn mình vui; thì người thua cũng bà con lối xóm không hè, họ buồn… Mà Tết nhứt mà làm thiên hạ buồn thì lương tâm mình cũng kẹt… ‘phé’.
Cờ bạc là chuyện không nên chơi; thôi mình nói đến chuyện ăn Tết cho nó no, nó vui hơn.
Tết là mứt bí, mứt dừa, mứt me, mứt mãng cầu, mứt gừng, kẹo chuối, chuối khô, …để quý bà uống trà rồi đàm đạo trong những ngày xuân.
Quý anh sui thì đem cái nhạo rượu nếp rót vô ly hột mít, sùi bọt tăm, thơm lừng mùi nếp; gắp miếng củ kiệu tôm khô, đưa vô mồm nhai ngồm ngoàm, xong khà một tiếng.
Đó là sui gia đến nhà nhau chúc tết, nhâu chơi chút đỉnh để giao tình thương mến thương…Sương sương rồi dông qua chúc Tết bà con lối xóm, đủ mặt văn võ bá quan không sót đứa nào, kẻo nó vạc miểng chén, miểng sành, rủa sả: “Giàu hổng bao nhiêu mà làm bày đặt làm phách!”
Cái vụ đi xông đất nầy tui hổng ham rồi vì rất ngại chủ nhà tin dị đoan, kiêng cử cái nầy cái nọ. Anh Phát, Chú Tài mới đặng. Chớ anh Tài đang ngồi với lai rai với chủ mà ỷ mình tên “Quan’ (chớ không phải lính) lọ mọ bước vào thì bà chủ nhà sẽ lấy cái chỗi chà để mà rượt ‘Quan Tài’ đầu năm chạy xịt khói.
Tên Quan cứ ở nhà làm ‘quan’, nhậu với em yêu là ‘phẻ’ nhứt hạng. Ôi thôi lủ khủ, hầm bà lằng, bao nhiêu món ngon ngày Tết sợ ăn tới ra Giêng còn chưa hết.
Món ăn ngày Tết của bà con mình ba miền Bắc, Trung, Nam coi vậy cũng khá khác nhau. Tết thay vì ăn cơm thì người Bắc ăn xôi gấc có màu đỏ cho nó hên. (Rồi có câu ‘đen bạc đỏ tình’. Quánh bài thua là dê được gái. Cái nầy coi bộ khó tin nhe. Thua sạch bóc, không còn một xu dính túi, áo vũ cơ hàn, lại thả dê ra, tui e rằng em nào cũng bĩu môi chê hết ráo.)
Nói chuyện phong tục ngày Tết mấy nhà văn, biên khảo quê mình ‘phét’ nghe rất ‘bốc’. Chẳng hạn như trên bàn thờ, cúng trái cây phải có trái dừa, trái đu đủ, trái mảng cầu và trái xoài thì quý thức giả nầy phán rằng: “Sỡ dĩ có 4 loại trái nầy là vì bà con miệt Lục tỉnh quê mình tin dị đoan chưng trái cây cúng ông bà tiên tổ với lời ước nguyện là năm mới ‘cầu vừa đủ xài’. (Phải vậy hông?)
Chớ theo ngu ý của tui, Tết tới, mùa trái cây đang chín rộ, thơm ngon thì mình cúng ông bà trước để nhớ ơn người xưa đi mở đất, xong người nay rinh xuống ăn, đâu còn y nguyên đấy chớ ông bà vốn thảo ăn chỉ hưởng cái hương hoa thôi.
Rồi các bực thứ giả nầy tán hưu tán vượn, nói bà con mình tin dị đoan vì chịu ảnh hưởng của mấy chú Ba trong quận Năm, Chợ Lớn.
Tết, chú Ba người Quảng Đông, ăn tôm vì tôm là ‘há’, đồng âm với “hí há tài xiu”, là cười to ha hả trong nhà suốt tháng quanh năm.
Rồi ăn thịt heo, tức là ‘trư’, đồng âm với ‘châu’, ý là “châu long nhập thủy’, châu báu tràn vào nhà như nước. Rồi ăn cải xà lách là ‘phát soi’, đồng âm với ‘phát tài’.
Còn chú Ba, người Triều Châu, ăn bánh tổ là ‘niên cao’, mang ý nghĩa là ước mong cho năm mới, gia chủ được may mắn, phát tài, năm mới sẽ tốt hơn năm cũ.
Rồi chè ‘ỉ’ là viên nếp nhỏ, tròn, không nhưn, được nấu chung với nước đường và gừng, khi ăn rắc thêm muối mè. “Ỉ” nghĩa là “viên”, “tròn”. Ăn chè ‘ỉ’ với mong muốn gia đình sẽ luôn được đoàn viên. (Phải vậy hông?)
***
Cứ mỗi độ xuân về, miền Bắc hoa đào nở rộ, miền Nam mai vàng đua sắc thắm nên có bực thức giả phán như thánh rằng: “Chưng mai vàng vào dịp Tết vì sẽ đem đến may mắn”. (Phải vậy hông?)
Có ông còn đi xa hơn (tui e rằng ổng đi lạc) cắt nghĩa trong mâm cơm ngày Tết của dân Lục tỉnh Nam kỳ bao giờ cũng có canh khổ qua dồn thịt, vì ăn khổ qua là mong muốn cái khổ sẽ qua đi.
Nhưng 44 năm, từ khi mất miền Nam, khổ qua đâu không thấy mà khổ nầy qua thì khổ khác tới, khổ dài dài hè; nên bà con mình Tết nào cũng lại tiếp tục ăn khổ qua.
Dân vưỡn, miệt vườn như tui, gọi khổ qua là ‘hủ qua’, không có sướng khổ gì ở đây hết ráo, (người Bắc gọi là mướp đắng cũng nó đó). Hổng lẽ ăn mướp đắng dồn thịt heo bằm nhuyễn với bún tàu, nấm mèo thì mong đời mình sẽ đắng nghét như trái mướp đắng hay sao?
Ca dao cũng có câu: “Đói lòng ăn trái khổ qua. Nuốt vô thì đắng, nhả ra bạn cười.”
Khổ qua, ăn sống, nó đắng nghét như thuốc Tetracycline; nhưng dưới tài nghệ ‘cook, cook’ của em yêu, trái khổ qua bào mỏng, bóp muối cho bớt đắng, làm gỏi thịt bò cho chàng ăn và uống với beer. Quá đã!
Phần đói ăn rau đau uống thuốc nên mấy ông thầy thuốc Nam có cắt nghĩa vầy thuyết phục được tui nè. Trái khổ qua ăn mát, giải nhiệt trong cái nóng ẩm ngày tết miền Nam, loại cholesterol (mỡ xấu trong máu), ăn với thịt kho hột vịt không bao giờ ngán ngược.
Tui cho rằng bà con mình ăn Tết món gì là theo kinh nghiệm mấy ngàn năm ăn uống của ông bà mình truyền lại. Nên nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đưa ra cái định đề về nghệ thuật ăn là mùa nào thức nấy, trong bài Cảnh Nhàn “…Thu ăn măng trúc, đông ăn giá. Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao…”
Em yêu đã chỉ dạy tui một cách có lý rằng: ăn Tết không dị đoan gì hết ráo. Đừng nghe những nhà văn, nhà báo tán láo. Một mâm cơm ngày Tết ngon là phải có cay, chua, ngọt, bùi, đắng mới làm đã cái lưỡi của mình.
Nhà nào Tết cũng có nồi thịt kho hột vịt sắc cầm hòa hiệp với tô canh khổ qua hầm. Món mặn và món canh nầy nầy nó hợp rơ hết biết, như tình anh với em, chớ không phải ăn khổ qua để cầu mong cái khổ nó qua đâu (?!)
Nhắc tới món thịt kho, không cần tới Tết mới ăn mà giỗ chạp hay ngay cả ngày thường cũng có. Em nào trước khi về nâng khăn móc túi anh yêu cũng được má dạy cho cách kho thịt nên rành sáu câu vọng cổ.
Thịt heo tươi, mua về rửa sạch bằng nước muối, cắt miếng vừa ăn có đầy đủ da, thịt và một lớp mở mỏng ở giữa. Ướp với nước mắm nhỉ, đường, bột ngọt, tỏi băm…Thêm một ít ớt sừng trâu chín đỏ. Hột vịt to đùng, lòng đỏ mới nhiều, luộc xong, lột vỏ. Nồi thịt màu cánh kiến, ớt đỏ sừng trâu, chén cơm trắng, dĩa cũ kiệu hay cãi làm dưa. Bảo đảm ăn hết nồi thịt kho, cây kim trên cái cân sẽ vụt cái rét, gãy làm hai vì cái thân bồ tượng của mình sau ba bữa Tết, nếu mình không ăn canh khổ qua để nó làm tan bớt mỡ.
***
Lại nhớ khoảng năm 65, 66 gì đó, thế kỷ trước, hồi tui nhỏ chút éc hè, Má tui kho nồi thịt không phải với hột vịt mà là trứng cút để giúp đồng bào mình qua cơn hoạn nạn.
Chẳng qua dân nghèo thành thị Sài Gòn bị lọt vào bẩy của mấy tay trùm tài phiệt Chợ Lớn cấu kết cùng bè đảng tuốt bên Hương Cảng để xí gạt dân mình. Đó là phong trào nuôi chim cút.
Cái mồi câu bằng cách mướn báo chí rầm rộ đăng tin trứng cút lên giá hàng ngày còn mắc hơn trứng gà, trứng vịt. Có bao nhiêu ‘bao tiêu’ hết bấy nhiêu nên đừng có lo nhe. Cứ mua cút giống về nuôi đi. Cút giống chừng hai tháng là bắt đầu đẻ ngày một trứng, kéo dài đến 9 tháng.
Sau hết đẻ trứng, cút đem ra bán thịt. Rồi lại mua cút giống về gầy đàn mới.
Trứng cút đem bán cho ông chủ tiệm chạp phô người Tàu, cười hè hè nói trứng cút bán chạy lắm, có bao nhiêu nị mang đến đây ngộ bao hết cho.
Trứng cút ăn với muối tiêu như trứng hột vịt lộn đều bổ, cường dương (chắc như viên màu xanh huyền diệu ‘Viagra’ bây giờ vậy). Thịt cút rô ti, chiên bơ lót dưới dĩa là cà tô mát đỏ xắt lát với cải xà lách, cút chấm muối tiêu nhậu với beer 33 là một trăm em ơi chiều nay một trăm phần trăm.
Cái thủ đoạn tinh vi, thâm độc nầy bơm giá chim cút giống phình từng ngày một. Cút giống từ 5,000 đồng một cặp cút giống bằng gần 20 đô la bấy giờ, tăng lên gấp đôi 10 ngàn, rồi tăng lên gấp 15 ngàn đồng một cặp.
Người dân Sài Gòn thuở ấy nghèo nhưng lương thiện nhắm mắt, nhắm mũi có bao nhiêu tiền để dành, cũng xuất ra mua cút giống về nuôi.
Sau khi đã hốt được hàng chục triệu đô la của dân nghèo, bọn đầu cơ Chợ Lớn cùng đám đại xì thẩu Hong Kong dông mất. Trứng cút, thịt cút ê hề, ế nhệ rớt giá từng ngày nhưng vẫn ít người mua vì dội chợ.
Bà con mình ngơ ngác hổng biết đứa nào cầm đầu mà chơi quá ác, không để đức gì lại cho con cháu hết trơn?
Thôi thì bị xí gạt, bà con mình xúm lại giúp đỡ nhau qua cơn hoạn nạn. Trứng cút được làm nhân bánh bao, thay trứng vịt như bánh bao bà Cả Cần chẳng hạn.
Còn đứa nào làm ác, gạt tiền mồ hôi nước mắt của dân nghèo thì để bà bắt nó.
***
Mấy chú Ba Chợ Lớn, dân buôn bán, thường dán câu đối liễn giấy đỏ chữ vàng,
như: ‘Tân xuân đại cát. Nhất bổn vạn lợi’. Một đồng vốn bỏ ra mà kiếm được tới 10 ngàn đồng lời thì nằm mơ cũng không có. Nếu có, chỉ bằng cách đầu cơ như phong trào nuôi chim cút. Nhưng làm ăn như vậy thất đức lắm nhe.
Cuối năm, quê người, em yêu cũng nấu canh khổ qua rồi kho một nồi thịt bự ế kinh, nhưng tui thấy vẫn còn thiêu thiếu. Ước chi có được một nồi thịt kho hột vịt do Má tui nấu như ngày xưa cũ mang cái hồn cổ thổ cho tui lúc sống xa quê.
đoàn xuân thu
melbourne
NHÀ THƠ, NHÀ VĂN ĂN TẾT!
Bà con mình nhận xét rất xác đáng là: “Nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà giáo cộng lại thành nhà nghèo”. Quả có vậy!
(Sở dĩ có ông nhà giáo chen vô mấy nhà nầy vì nhà văn, nhà thơ, nhà báo thường là nghề tay trái; còn nghề tay mặt cũng đi bán chữ là nhà giáo đó thôi.)
Nhân dịp xuân về, chúng ta thử đốt lò hương cũ, tìm lại bóng hình xưa để xem mấy ‘nhà’ nầy hồi xưa ăn Tết ra làm sao?
Trước hết là nhà thơ Trần Tế Xương!
Ông sanh ngày mùng 5, tháng Chín, năm 1870. Còn gọi là Tú Xương vì ông thiTú tài 9 lần mới đậu… thi Cử nhân tới 5 lần đều rớt cả nên không được làm quan.
(Thời nào cũng vậy thực dân Pháp hay CS… làm quan mới có đường tương chao mà chấm mút chớ!)
Nhà thơ Tú Xương bất đắc chí, hay tức cảnh sinh tình làm thơ, nhứt vào dịp xuân về, Tết đến. Mà bài nào cũng chua với chát.
Nhưng cái may mắn nhứt trong đời nhà thơ (không phải ai cũng có được kể cả tui) là có một người vợ “Quanh năm buôn bán ở mom sông. Nuôi đủ năm con với một chồng!”
Bù lại là lòng biết ơn vợ, nhà thơ làm xong một bài dán trên gốc cột: “Hỏi mẹ mày rằng dốt hay hay?” “Thưa rằng hay thật là hay!”
Rồi ông cười khè khè tiếp ngay: “Chẳng hay sao lại đỗ ngay tú tài?!”
Người vợ cũng là một độc giả hiểu thơ Tú Xương đâu thua gì nhận xét của Tản Đà, nhà thơ nổi tiếng ‘ngông’ của giao thời cũ mới: “Trong những thi sĩ tiền bối, tôi khâm phục nhất Tú Xương”.
Rồi Nguyễn Khuyến, lớn hơn Tú Xương tới 35 tuổi, nhưng lại mất sau ông 2 năm, khi nghe tin nhà thơ từ giã cõi đời vào ngày thứ Ba, ngày 29, tháng Giêng, năm 1907, nhằm ngày 16, tháng Chạp, năm Bính Ngọ, nghĩa là còn 2 tuần nữa tới Tết ta, chỉ mới 37 tuổi, cảm thán rằng: “Kìa ai chín suối Xương không nát. Có lẽ nghìn thu tiếng vẫn còn”
Thơ Tú Xương thâm trầm, ý nhị, hay là khỏi phải bàn cãi rồi! Như trong bài thơ “Năm mới”: “Khéo báo nhau rằng mới với me. Bảo nhau rằng cũ, chẳng ai nghe. Khăn là bác nọ to tầy rế. Váy lĩnh cô kia quét sạch hè. Công đức tu hành, sư cô lọng. Xu hào rủng rỉnh, Mán ngồi xe. Phong lưu rất mực ba ngày tết. Kiết cú như ta cũng rượu chè”.
Nhà thơ xứ Bắc nầy nghèo kiết xác, mà nói kiểu trong Nam là nghèo mạt rệp;
nên Tú Xương chua chát rằng tiền mình cũng có nhưng chưa lĩnh, rượu cúc đã ‘ó đơ’ (order) rồi mà hàng rượu làm biếng chưa ‘delivery’.
Rồi trà rồi bánh mứt đủ cả…
Nhưng kết luận là thôi đành để Tết khác hẳng ăn.
“Anh em đừng nghĩ Tết tôi nghèo. Tiền bạc trong kho chửa lĩnh tiêu
Rượu cúc nhắn đem, hàng biếng quẩy. Trà sen mượn hỏi giá còn kiêu
Bánh đường sắp gói e mồm chảy. Giò lụa toan làm sợ nắng thiu
Thôi thế thì thôi đành Tết khác. Anh em đừng nghĩ Tết tôi nghèo”.
***
Nhưng tại sao những nhà thơ nước ta ông nào cũng nghèo hết ráo? Vì thơ bán có ai mua đâu mà có tiền! Tản Đà làm thơ còn tính đem lên bán cho ông Trời nữa là.
Đó là một lẽ nhưng lẽ thứ hai là có đồng nào mấy ông nhà thơ xào đồng nấy. Có nhiều xài nhiều; có ít xài ít. Xài cho mình rồi chia cho bạn văn, bạn thơ của mình nữa.
Giai thoại ghi lại là: Tết Giáp Tuất 1934, tờ Đông Pháp thời báo của ông Diệp Văn Kỳ ở Sài Gòn làm xong số Tết; thợ thầy, nhà văn, nhà thơ, cộng tác thường xuyên, có tên trong Ban Biên Tập, được lãnh thêm một tháng lương thứ 13.
A lê hấp! Tản Đà đã xài sạch sành sanh, xài sạch bách! Hình như để tiền trong túi bị tiền cắn làm cho ngứa ngáy sao đó.
(Tui cũng vậy! Em yêu của tui thừa biết tâm tính các nhà văn, nhà thơ, nên có chút đỉnh tiền nhuận bút là em yêu tình nguyện giữ hết hè.)
Tết đến nơi, không còn một cắc, nên Tản Đà hỏi mượn tiền, ông Chủ báo Diệp Văn Kỳ cũng thông cảm, bèn lì xì cho tiên sinh thêm 5 đồng.
Tản Đà ra Bưu Điện gởi cho ông Ngô Tất Tố, là bạn văn (chắc cũng nghèo mạt như ông) 3 đồng ăn Tết.
Rủ bạn thơ Tùng Lâm mướn xe ‘xịn’ chạy vòng vòng Sài gòn chơi cho nó oách hết 1 đồng. Còn 1 đồng, lấy 2 cắc mua rượu khề khà trước. Còn 8 cắc, nhờ Tùng Lâm đi mua một hũ rượu Mai Quế Lộ và một con gà mái tơ luộc làm mồi nhắm cho ba bữa Tết.
Trên đường về, qua một sòng bầu cua, thấy một đám đánh lộn, Tùng Lâm đứng lại xem. Mã tà ùa tới, còi tu huýt inh ỏi, cả bọn lên xe cây về bót trong đó có nhà thơ Tùng Lâm.
Sáng hôm sau, mùng Một, ông Cò thương tình Tết nhứt, nên ra lịnh thả cả bọn ra.
Mã tà vào thấy nhà thơ Tùng Lâm còn quá xỉn, nằm ì ra đất, bên cạnh mớ xương gà và cái hũ rượu cạn queo.
Về đến nhà thì Tản Đà đêm qua chờ hoài hổng thấy bạn về, nên ‘quất’ hết 2 cắc rượu đế, xỉn ngủ mê man tàng tịch, giờ chưa dậy.
Tùng Lâm ứng khẩu 4 câu thơ để biện minh cái lỗi không phải của mình: “Cao hứng vì yêu bác Tản Đà. Một chai Quế Lộ, một con gà. Suốt đêm trừ tịch nằm trong bót. Nhớ lại buồn cười lúc tỉnh ra!”
***
Nhắc đến Tản Đà là chúng ta lại nhớ tới Nguyễn Vỹ. Ông nầy nhiều nhà lắm. Nào là nhà thơ, nhà báo, nhà biên khảo… Có lúc nghèo mạt và cũng có lúc giàu sụ.
Nghèo là lúc Nguyễn Vỹ làm báo ở Hà Nội. Tết đến không một xu dính túi, bèn viết thơ mượn ông Nhất Linh cũng 5 đồng bạc. Cho dù hai người chỉ nghe tiếng nhưng chưa biết nhau lắm. Cái ngạc nhiên là ông Nhất Linh Nguyễn Tường Tam cũng gởi cho.
Ông Tản Đà gởi cho ông Ngô Tất Tố 3 đồng thì Nguyễn Vỹ cũng cho nhà văn Trương Tửu 3 đồng để ăn Tết.
Sau nầy vô Sài gòn làm ăn khấm khá, Nguyễn Vỹ có trả 5 đồng lại cho nhà văn Nhất Linh. Ông Nguyễn Tường Tam lại chơi ngon, dắt Nguyễn Vỹ đi nhậu hết để kỷ niệm một giai thoại.
Vậy là các nhà thơ, nhà văn của chúng ta đều nghèo đói như nhau cả; nhưng có chút đỉnh là chia sẻ với bạn văn nghệ của mình, lá rách đùm lá nát.
Nguyễn Vỹ chuyên làm báo và chuyên đi ở tù. Tù thời thực dân Pháp đến phát xít Nhựt. Mãi đến sau khi vào Nam, ra tạp chí bán nguyệt san Phổ thông rất ăn khách, xuất bản hàng tuần lên tới 25 ngàn ấn bản. Rồi tuần báo Bông Lúa, Tuần báo thiếu nhi Thằng Bờm bán rất chạy… nên ông Nguyễn Vỹ ‘thoát nghèo’, tiền bạc rủng rỉnh, cư xử hào phóng với bạn văn chương; có lẽ vì nhớ thuở xưa thân sơ thất sở mới bắt đầu vào nghề viết báo giống mình hay chăng?
Nguyễn Vỹ viết đủ thể loại từ thơ tới văn và biên khảo. Nhưng bài thơ “Gửi Trương Tửu” mới thực là kiệt tác.
“…Dạo ấy chúng mình nghèo xơ xác. Mà vẫn coi tiền như cỏ rác. Kiếm được đồng nào đem tiêu hoang. Rủ nhau chè chén nói huênh hoang. Xáo lộn văn chương với chả cá. Chửi Ðông, chửi Tây, chửi tất cả. Rồi ngủ một đêm mộng với mê. Sáng dậy nhìn nhau cười hê hê!
…Bây giờ thời thế vẫn thấy khó. Nhà văn An-nam khổ như chó! Mỗi lần cầm bút viết văn chương. Nhìn đàn chó đói gặm trơ xương. Rồi nhìn chúng mình hì hục viết. Suốt mấy năm trời kiết vẫn kiết!…”
Sau khi tuần báo Phụ nữ Hà Nội đăng bài thơ, Nguyễn Vỹ thuật lại là: “Một buổi chiều, tôi đến chơi ở tòa báo, ngõ Hội Vũ, bỗng thi sĩ Tản Đà từ ngoài bước vào. Một chiếc khăn đóng đã mòn viền, đáng lẽ đội trên đầu ông lại đeo tòn ten trong cánh tay. Vẫn chiếc áo lương thâm cũ giống chiếc áo mà tôi đã thấy ông mặc năm năm trước. Ông hỏi: “Có ông Nguyễn Vỹ ở tòa báo không?” Cô bạn thơ ký Tòa soạn liền cười, chỉ tôi: “Thưa cụ, Nguyễn Vỹ đây ạ!”
Ông ngạc nhiên ngó tôi: (chắc còn nhóc quá) “Ông muốn đi chơi với tôi không? Ông có rảnh không?””Dạ thưa cụ, cháu rảnh ạ!”
Ông đưa tôi đến nhà ở ấp Thái Hà. Ông lấy chai rượu ra và hai cái cốc, bảo một chú bé chạy đi mua hai gói lạc rang (đậu phộng) để làm mồi nhắm.
“Tôi thích bài thơ ‘Gởi Trương Tửu’ của ông, nên mời ông uống rượu. Trương Tửu là ai? Ông ấy biết uống rượu không?””Dạ, tên anh ấy là Trương Tửu, thì cụ khỏi hỏi!” “Hôm nào ông rủ ông ấy đến uống rượu với tôi!”
“Nhưng tôi giận ông lắm vì sao ông lại bảo: Nhà văn An Nam khổ như chó? Ông so sánh nhà văn chúng ta với kiếp chó, mà ông không hổ thẹn ư?”
“Thưa cụ, nếu cháu so sánh nhà văn với chó, thì chó nó thẹn, chớ sao nhà văn lại thẹn?”
Ông Tản Đà làm thinh nốc hết ly rượu, rồi rót luôn một ly nữa. Xong, ông nói, không ngó tôi: “Ông làm tôi buồn cười!” Rồi ông rưng rưng nước mắt!
(Thiệt đúng: Cười là tiếng khóc khô không lệ!)
***
Còn nhà thơ nhà văn nhà báo hải ngoại nầy sống ra sao ăn Tết ra sao? Thiệt tình tui không biết.
Lẽ thứ nhứt là viết văn, viết báo với tui chỉ là một thú vui. Trong cái làng văn nghệ đầy dẫy cây đa, cây đề tui chỉ là một thằng hề… vô danh tiểu tốt, đứng sớ rớ ngoài cửa nhìn vô, hóng chuyện nghe các nhà văn… ăn nói lung tung… xèng (?!)
Hai là cũng học câu: Có công mài sắt có ngày nên sắt… nên tui tính kiếm sống bằng ngòi bút, chỉ mong rau cháo qua ngày thôi; chớ hỏng dám đòi khô lân, chả phụng, rượu Hennessy gì đâu. Vậy mà có lần tui ngu ngơ, tâm sự ‘vặt’ với một em Chủ bút bên Canada rằng: “Qua tới Úc mấy chục năm rồi, cày suốt, oải quá. Giờ đến tuổi về hưu, tui tính nghỉ để có nhiều thời giờ rảnh rỗi hơn, đọc và viết chơi. Sau đó có thêm tiền nhuận bút kha khá để bù vào cái lương hưu còm cõi của mình!”
Nhưng người em văn nghệ (đất lạnh tình nồng) phán một câu thiệt là chánh xác; nhưng nghe đau lòng hết sức như đọc bài thơ “Gởi Trương Tửu” của Nguyễn Vỹ vậy! Em phán rằng: “Ở hải ngoại nầy đây, đâu có ai sống được bằng ngòi bút của mình đâu chú?!” Nghe xong tui muốn bắt chước ông Tản Đà (mà đập đầu vào gối) khóc hu hu!
Đó đó bà con nào thắc mắc hỏi ở hải ngoại nhà thơ, nhà văn ăn Tết ra sao? Câu trả lời của tui là: “Dà hổng dám ăn đâu!”
Vậy mà thằng bạn nhậu, kiêm độc giả của tui, lại phán một câu rất ư ‘cà chớn’ rằng:”Viết một bài chỉ có 2000 chữ, nhuận bút tới 50 đô Úc, bằng bà con mình trong nước bán vé số suốt một tuần. Vậy mà cứ than thở hoài hè.
Các nhà thơ nhà văn các ông là bọn: “Được voi đòi Hai Bà Trưng!”
Xem thêm : Năm 1789 Có Sự Kiện Gì
đoàn xuân thu.
melbourne
Chuyện tình dưa đầu heo!
Ăn thịt heo trước hết là phần đầu. Bắc gọi là thủ lợn; Nam gọi là đầu heo.
Bà con miền Tây mình khi van vái điều gì, được đắc thành sở nguyện thì thực hiện lời hứa với người khuất mặt, khuất mày đã giúp cho tai qua nạn khỏi. Rủng rỉnh tiền, thì cúng nguyên cả một con heo. Nghèo nghèo một chút thì cái đầu heo cũng đặng.
Nếu lỡ nổ, chơi sộp, hứa nguyên con là phải cúng nguyên con. Còn hứa nguyên con mà cúng chỉ có cái đầu thì coi chừng ông bà giận bẻ cái cần cổ mầy, cái miệng lọi qua phía sau, là hai tay vẫn còn phía trước thì thấy đường đâu mà bóc thịt heo bỏ vô miệng.
Chuyện rằng: nhà thơ Tản Đà xứ Bắc chỉ ăn có một thủ lợn tức cái đầu heo mà rườm rà quá thể.
Cái đầu heo luộc, khệ nệ đem cúng trên bàn thờ. Xá xá chờ một hồi cho nước dãi (miền Nam gọi là nước miếng) tràn ra cả khóe miệng, nhịn hết nổi, nhà thơ bèn hai tay kính cẩn bưng xuống (coi chứng rớt).
Rót đầy ly rượu, cầm dao xẻo một miếng tai heo, chấm muối, nhai rau ráu, chiêu một ngụm, chơi một miếng xôi.
Lai rai hoài đến hết thì thôi. Hết là tới quắn cũ tỉ say, lăn quay ra mà ngủ.
***
Nói thiệt tình tui chỉ biết ăn, nấu là mù mịt. Muốn ăn nhậu gì đó là nhờ vào một tay của em yêu. Bằng em không chịu nấu nướng gì ráo thì tui đành đi tiệm vậy thôi.
Nội cái đầu heo, em làm được biết bao nhiêu là món. Cái món khoái khẩu, nhậu chết bỏ, là món dưa đầu heo. Tết nào em cũng làm vì món nhậu rất bắt nầy chứa cả một trời kỷ niệm.
Ôi nhớ xưa nhà tui ở cạnh nhà em, cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn (Giậu là cái hàng rào đó ạ). Nên lâu lâu, tui vạch rào, ngó qua coi em yêu làm cái gì trên sàn nước gie ra mé mương.
Chiều 23, tháng Chạp, đưa ông Táo về Trời, tui thấy em mặc chiếc áo bông hường, ngoeo ngẩy vác cái đầu heo ra sàn nước ngồi chành bành để nhổ lông… heo.
Em cầm dao bửa cau bén ngót, thiện nghề như một tay đồ tể, cạo sạch lông; xong tách đầu heo làm hai phần xương và thịt. Phần xương, em để riêng vào một cái thau nhôm. Phần thịt đầu, gồm hai cái lỗ tai, thịt mũi, thịt nọng, em lóc ra, ngâm với nước lạnh có pha một ít phèn chua rồi xả sạch, để ráo.
Tui hút gió, em nhìn qua, tay tui chỉ ra bờ mẫu. Ngón tay trỏ và ngón tay cái đâu vào nhau, còn ba ngón bên bàn tay trái với 5 ngón bàn tay phải giơ lên. Em cười lỏn lẻn đánh tín hiệu cũng bằng ngón trỏ cong vào ngón còn lại giơ lên trời nghĩa là ‘ok’!
(Còn hôm nào, mặt trận miền tây không yên tĩnh vì ông già Tía em ở nhà thì ba ngón còn lại của em cụp xuống có nghĩa là không, tối nay không có được.)
Đêm đó, tui ngồi cạnh em trên bờ mẫu còn nghe phảng phất mùi thịt heo quanh quẩn đâu đây, tui nói: “Cha! Năm nay Nhà Mén ăn Tết lớn!”
“Tía kêu Mén làm dưa đầu heo để Tía đãi khách đó anh!”
“Cha nghe hấp dẫn quá! Nhưng đãi khách nào vậy? Phải có người tới coi mắt Mén phải không?”
Em ngoe ngẩy lắc đầu. Mà nếu có, em nhứt định không ưng; cho dù Tía em có “Đem em ra treo tại cái cột đình. Đứt dây rớt xuống thương mình em vẫn thương!”
“Thiệt hé?! Thề đi!” Em bèn thề: “Đứa nào phụ anh cho bà bắt nó! Còn anh cũng vậy phải thệ hải sơn minh, phải thề lại em mới tin! Chẳng qua em nghe con ‘Chín Bờ Đò’ bán xôi gần sạp thịt heo của tía em ngoài chợ nói nó kết anh lắm! Anh là người duy nhứt trong cái xóm nầy có ăn có học. Nó chẳng ham ruộng cả ao điền chỉ ham cái bút cái nghiên anh đồ thôi hè!”
Tui vội vàng cải chính: “Anh đâu có học chữ Nho, anh học chữ Tây. Mà học cũng tới cái ‘đít lôm’ thôi!”
“Thì cái ‘đít lôm’ của anh đủ làm thầy thông, thầy phán; đủ để sáng rượu sâm banh tối sữa bò nên con Chín Bờ Đò tính phổng anh trên tay của em!”Tui bèn trấn an em rằng: “Thôi lấy con Chín Bờ Đò bán xôi, ngày nào cũng ăn nếp ngán lắm. Anh chỉ thương con Mén bán thịt heo thôi. Ngày nào ăn thịt heo mình cũng đâu có ngán. Biết bao nhiêu là món! Nhưng nè cái đầu heo em làm món gì vậy?”
“Thì em bắc nước lên bếp, nấu sôi đổ thịt vào luộc vừa chín tới, vớt thịt ra ngâm vào nước lạnh, rửa sạch để ra rổ cho ráo, dùng vải the sạch lau từng cục thịt đã luộc chín cho ráo. Tiếp đến, đổ thịt đã luộc vào thau, ướp muối, đường, tỏi, bột ngọt rồi cho vào keo giấm đường, muối, riềng… khoảng tới 30 Tết là ăn được. Dưa đầu heo nhai dòn dòn xực xực uống với la de là hết xẩy đó anh yêu!”
Xong em vẽ ra một chân trời viễn mộng: “Khi về làm vợ anh rồi, mỗi khi gió chướng thổi về trên ngọn ô môi, Tết tới, em sẽ làm dưa đầu heo cho anh nhậu để nhớ ngày đầu đôi ta tao ngộ chiến hé!”
***
Tết năm đó, mùng Hai, Tía tui kêu: “Tèo à! Mặc quần áo mới vô, bỏ vô quần đàng hoàng ra vẻ con nhà có học, chải đầu với bi-ăng- tin, đừng để xước xước như con gà ướt… Theo Tía với Má mầy qua nhà con Mén. Tía Má nó đánh tiếng cho nhà mình tiến tới!”
Nghe tới cái vụ đi hỏi vợ là tim tui đập thình thịch, mặt mày đỏ ké, mắc cỡ ngang xương hè. Nên thoái thác: “Thôi Tía với Má đi đi! Con đâu biết ăn nói gì đâu hè?”
“Mầy cưới vợ hay tao?” Tía tui gằn giọng: “Mầy tối nào cũng dụ khị con gái người ta, dắt ra bờ mẫu; bộ tưởng thiên hạ đui điếc hết sao mà không biết? Lần lửa hoài, cái bụng con Mén chang bang lên là Tía Má mầy phải phải trầu rượu dắt mầy qua cho mầy thú phạt thì mặt mũi nào tao dám ngó người ta he””Phần qua bên đó mầy không cần nói; chỉ cần ăn thôi!”
Nghe tới ăn, nhớ tới cái món dưa đầu heo em yêu từng quảng cáo, nước miếng tui nhểu ròng ròng. “Thôi Tía tính vậy cũng đặng! Chớ ý con là họ muốn gả con gái họ cho con trai của Tía là họ phải qua đây chớ?!” “Mắc mớ gì mình phải qua nhà nó?”
“À cái thằng nói ngộ! Bộ cái xứ nầy theo chế độ mẫu hệ hay sao? Mầy có chút đỉnh Tây học mà quên phứt cái phong tục của ông bà mình. Trâu tìm cột chớ cột nào tìm trâu?”
Vậy là mùng hai Tết năm đó! Năm Tân Hợi, 1971. Để coi cũng hơn nửa thế kỷ rồi đó chớ. Tui lúm cúm theo Tía Má tui qua nhà em Mén.
(Nhà em chỉ có hai anh em. Thằng anh tên là Chí và em tên là Mén. Chí Mén.)
Tía em mời Tía tui lên ngồi bàn trên, trước tủ bàn thờ tiên tổ. Má tui với Má em trên bộ ván gỏ, ngồi ngoáy trầu!
Tía em giả lã: “Hỏng dám nào! Tết nhứt tới nơi, tui mời anh vài ly rượu, do cái tình chòm xóm, nhứt cận lân nhì cận thân. Sát nhà nhau, thân con hơn bà con ruột thịt nữa đó anh.” Tui vọt miệng chen vô: “Bác trai nói chí phải!”
Tía tui nạt ngang làm tui cụt hứng hè “Nín! Con nít bày đặt thèo lẻo, ăn cơm hớt. Để Tía” “Dà đúng như thằng Tèo con tui nói, anh nói quả là phải phải.”
(Đời mà! Ai nói trật lất mà mình cứ cho họ nói phải, là cửa ải ngăn cách nào cũng vượt qua vì nghe tâng bốc, trong bụng họ khoan khoái lắm)
Tía em quay vô trong kêu: “Mén à! Dọn ra cái gì cho Tía với với Bác ba đây làm sương sương, tình thương mến thương, nhân ngày tết nhứt đi con!”
Thì “Dạ Tía!” Cái giọng nhẽo nhẹt như Điêu Thuyền vâng lời quan Tư đồ Vương Doãn đi ‘bồi’ rượu cho Lữ Bố vậy!
Một dĩa dưa đầu heo nè, tôm khô củ kiệu cho bàn trên. Trên bộ ván gỏ, Má tui ngồi với Má em là dưa hấu, bánh Tét nhưn mỡ, ăn với củ cải mắm làm dưa.
Tía em lấy cái nhạo trên bàn thờ xuống, rót vào ba cái ly hột mít. Nhắc cái nhạo hơi cao, mà rượu không đổ ra giọt nào! Tía em quả là một người điệu nghệ, dân nhậu thứ thiệt.
Xong quay qua tui, Tía em nói: “Tết nhứt mà thôi miễn lễ cho thằng Tèo được phép ngồi chung bàn. Mình làm sương sương vài ly vui Tết đi anh!”
Nghe lời như cởi tấc lòng, tui khép nép ngồi xuống ghế, chẳng qua là tui thèm món dưa đầu heo của em Mén mà thôi. Dai dai, xừng xực cắn một cái ngập chân răng, quá đã.
Tía em bảo tui gắp một miếng rồi cầm ly rượu đế lên. Tui khẳng khái chối từ: “Thưa bác Tư Hí, con chỉ khoái món dưa đầu heo của em Mén mới ngồi. Phần con không thích uống rượu đế. Nóng quá. Con thích lave BGI Con Cọp mà nhãn trái khóm uống mát làm sao, đã hết biết!”
Tía tui trừng mắt nhìn rồi sửa lưng tui: “Con đừng gọi anh Tư là Bác Tư Hí nữa. Ảnh ‘hí’ là kệ ảnh! Thiên hạ kêu như vậy là đồ vô phép; phận con cháu; đừng có hỗn hào.”
Ai dè Tía em binh tui nhe! “Ối anh ơi! Tui hí thì cháu kêu hí phải rồi. Tui chịu cái tính chân thật không dóc láo. Thấy sao nói vậy!”
“À Tèo à! Nghe cháu có cái bằng ‘đít lôm’ của Tây; cưới vợ về cháu tính làm sao nuôi nó?” Tui bèn trả lời: “Thưa Bác Tư! Con không phải là người theo chủ nghĩa vô thần. Con tin có ông Trời. Có chút chữ, con sẽ đi viết báo, đặt chuyện dóc, kiếm tiền nhuận bút để nuôi em Mén. Dẫu hổng nhiều, no thì không nhưng chết đói là không có.
Người ta hay nói lấy bồ đựng lúa chớ không phải để đựng chữ là do nông dân cà nanh với dân trí thức. Lúa đầy bồ bán rồi cũng hết. Chữ lai rai bán hoài hổng hết đâu nhe Bác Tư!”
“Ờ! Bác Tư đồng ý với con! Chữ con đủ nuôi vợ rồi. Nhưng vợ chồng xáp lại phải đẻ con chớ… Thì làm sao nuôi tụi nó”? “Dà như đã nói, con tin ở ông Trời! Trời sanh voi Trời sanh cỏ mà. Con của con sau nầy là cháu ngoại của bác Tư. Con ăn hiền ở lành ông Trời không nỡ bỏ. Con của con là cháu ngoại của bác Tư thì hai bác bỏ sao đành.”
Thì Tía em phán rằng: “Như vậy cháu Tèo nghĩ bác Tư là ông Trời hả?”
Tui bèn khoanh tay cúi đầu: “Bác Tư dạy quả không sai!”
***
Vậy đó bà con ơi! Tưởng ông già vợ tương lai là ông Trời mà không phải! Tui mới là ông Trời đây! Cày như trâu có chút đỉnh tiền, con vợ tui, con gái bác Tư ngày cũ, và đám con tui là cháu ngoại của ổng bây giờ, muốn gì có nấy!
Ổng già vợ tui bàn giao chức ông Trời cho tui mà hổng chịu bảo gì nhau! Hu hu!
Xem thêm : Năm 1789 Có Sự Kiện Gì
đoàn xuân thu.
melbourne
Sờ mu rùa
Tết tới, báo Việt ngữ hải ngoại từ Úc sang Mỹ đều đồng loạt ra báo Xuân. Bài vở đặc sắc; tuy nhiên đôi khi độc giả không có huỡn mà đọc hết những dòng tâm huyết của tác giả vì mắc bận ăn Tết. Nhưng có một mục đăng vào những trang cuối của đặc san số Tết là tử vi, ai ai cũng đọc. Bà già, ông già, con trai, con gái, nếu không mù chữ, đều đọc. Ðọc rồi quên ráo mà cũng hổng có hưỡn để mà tin lời mấy thầy… bói ra ma, quét nhà ra rác.
Bà con mình chắc có nghe bài vọng cổ “Tôn Tẩn giả điên” của soạn giả Viễn Châu do đệ nhứt danh ca Út Trà Ôn xuống sáu câu mùi rệu: “Ta chép cuốn thiên thơ cho đến khi chữ cuối cùng vừa chấm dứt thì mạng của ta cũng chấm dấu sau cùng…”
Tôn Tẩn bèn giở tờ thiên thư của Quỷ Cốc tiên sinh, đời nhà Chu, là ông tổ của các thuật tướng số, bói toán, phong thủy bói đâu trúng đấy, là sư phụ của mình ra xem. Thì trong bức thư chỉ có một chữ ‘cuồng’…
Tôn Tẩn là học trò thông minh, đọc có một chữ ‘cuồng’, hiểu ngay là sư phụ muốn mình bắt chước nhà thơ Bùi Giáng, bèn giả điên để tránh nạn Bàng Quyên.
Chính vì tài nghệ của chú Ba, vua đặt dóc y như thiệt, nên bà con mình, kể cả em yêu của tui rất tin vào bói toán.
Mà có nhiều người đi coi bói theo quy luật cung cầu của thị trường là có nhiều người làm thày bói. Vì thế cho nên tui cứ tưởng nước Tàu, nước ta mới có nghề thầy bói. Ai dè nước Mỹ, siêu cường duy nhứt trên thế giới, với nền khoa học kỹ thuật tối tân hiện đại (đầy hại điện) lại có quá nhiều thầy bói nghiệp dư, bói đâu trật đó!
Bảo Huân
Những lời tiên đoán sai bét nhè nầy có thể xếp ra thành hai loại. Một là khoái Tổng thống Donald Trump như Fox News… (hơi bị ít). Hai là hổng khoái Donald Trump (hơi bị nhiều) CNN, CBS, New York Times và Washington Post…
Phe khoái và sùng bái Trump thì bói toán như vầy: “Cuộc điều tra về việc ban vận động tranh cử của Donald Trump thông đồng với Nga trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ vừa qua sẽ chấm dứt vào tháng Chín, trước cuộc bầu cử giữa kỳ quốc hội Mỹ. Không ai bị truy tố ra ba Tòa quan lớn”.
Bói trật lất vì cuộc điều tra vẫn còn đang tiếp diễn, đã truy tố 33 ‘mông xừ’ hơn 100 tội hình sự. Mấy hãng làm lịch của Mỹ coi bộ năm tới, chắc như bắp là làm ăn rất khấm khá!
Rồi chính Tổng thống Doanld Trump bói: Bầu cử Quốc Hội Mỹ giữa kỳ, màu đỏ sẽ tràn ngập, đảng Cộng Hòa thắng lớn cũng do tui quá giỏi và hay. Nhưng bói trật lất vì mất tới 40 ghế ở Hạ viện. An ủi một cái là Thượng viện thêm được hai ghế.
Bà con người Mỹ nào hổng thích Donald Trump thì bói: “Quốc hội sẽ luận tội và Tổng thống sẽ ra đi” Bói cũng trật lất vì tới giờ thì Donald Trump vẫn còn ngồi lù lù một đống trong Tòa Bạch Ốc.
***
Dân Úc nầy lại không khoái chuyện đảng phái lắm. Ðối với chánh trị gia, Úc phán là toàn bọn crooks (lừa đảo), nên ‘who cares?’ (ai mà quan tâm). Ðể thời giờ uống beer, ăn thịt nướng, sướng hơn bàn về chánh trị.
Bầu cử bên Úc bắt buộc, đứa nào không đi bầu, chỉ khoái ở nhà để làm em yêu có ‘bầu’, thì bị phạt 50 đô, bằng giá một thùng beer. Nếu không sợ mất một thùng beer là Úc, thứ Bảy, ngày đi bầu tụi nó ở nhà nhậu hết trơn hè!
Nhưng báo chí người Việt ở Mỹ, Canada và Úc đều có ‘bình loạn’ về chính trị dẫu hổng dám bắt phe lắm; vì sợ làm mích lòng độc giả của mình, (kẻ binh, người chống Tổng thống Donald Trump).
Quý chủ nhiệm, kiêm chủ bút, kiêm thư ký tòa soạn chọn thái độ trung dung là vì độc giả là đối tượng phục vụ của tờ báo. Có nhiều độc giả mới có nhiều quảng cáo. Mà quảng cáo nhiều mới có tiền mà sống để tiếp tục làm báo. Tui cho rằng thái độ đó hơi ‘ba phải’ nhưng ‘lém’!
Nhưng bà con người Việt mình ở hải ngoại có lẽ cô đơn buồn nào hơn đêm nay nên khoái lên Facebook làm thầy bói nghiệp dư đoán mò, kẻ nói gà bà nói vịt, cãi nhau chí chóe như mổ bò… Vui lắm.
Thấy thiên hạ làm thầy bói tui cũng ham vui, bèn nhào vô bói vầy nè: “Mai sáng mặt trời sẽ mọc hướng Ðông; chiều tối sẽ lặn về hướng Tây. Lễ Giáng Sinh sẽ tổ chức vào 25 tháng Chạp” Trúng chắc 100%.
Còn về chánh trị bói trúng tới 90% là: Quan chức chóp bu CS mất ghế, vì đấu đá giành ăn lẫn nhau trong nước, mình sẽ gặp nó đi đánh bài ở Las Vegas. Còn tầm tầm cỡ Giám đốc Sở ở tỉnh, mình sẽ thấy nó ngồi ăn phở ở Footscray (Úc Châu).
***
Có hai lý do chánh, theo tui, những tai to mặt lớn trong chánh giới Hoa Kỳ bói đâu trật đấy và trật bấy là vì làm thầy bói tay mơ, nghiệp dư, không có đào tạo bài bản như mấy thầy bói ‘Mít’ nhà mình.
Lý do thứ nhứt là bói toán giống như mù sờ voi, nên phải khôn lỏi là phân hai, đường nào cũng trúng, mới đặng.
“Số cô có mẹ, có cha. Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông. Số cô có được tấm chồng. Sanh con đầu lòng, không gái, thì trai”.
Còn lỡ phán trật, là phải biết lưỡi không xương nhiều đường lắt léo. Miệng không vành nó méo tứ tung. Bói rằng: “Cha cô chết lúc ban ngày..”. “Không phải thầy ơi!” là mình quẹo cua liền “Cha cô chết lúc ban ngày. Thương con nhớ vợ, chết rày ban đêm”.
Lý do thứ nhì thầy bói Mỹ dở như hạch vậy vì trước khi xủ quẻ là mình phải sờ ‘mu’… rùa. Bói trật mình đổ thừa cái ‘mu’ chớ hổng phải tại thầy bói ngu. Vì ‘mu’ rùa là đồ nghề của thầy bói. Làm nghề không có đồ nghề đâu có được.
Mu, dáng múp múp, nhô lên trên tay hay chân. Nên có chữ mu bàn tay, mu bàn chân. Còn con rùa cũng có cái múp múp như vậy nên gọi là mu rùa (bắc gọi là mai rùa). Vốn là dân vườn, Lục tỉnh miền Tây nên tui khoái chữ ‘mu’ vì nó tượng hình hơn.
Ðem mu rùa hơ lửa. Mu rùa gặp nóng sẽ tạo ra những vết nứt. Nếu vết nứt trên mu rùa chạy song song với đường thẳng chạy từ dưới lên trên thì là điềm lành. Và ngược lại, nếu vết nứt bị cắt ngang bị cho là điềm dữ.
***
Còn bói kiểu nhạc sĩ Hoài An (1929-2012) là để được cầm tay em mà dê đạo lộ.
Trong “Thiên Duyên Tiền Ðịnh’ ông nhạc sĩ kiêm thầy bói đã cho anh Hùng Cường sờ mu rùa em Mai Lệ Huyền trúng phóc như vầy:
“Mười hai con giáp em đây cầm tinh Quý Mùi. Cầm tay anh đoán năm nay duyên lành đến rồi. Gặp chồng hiền đức dễ thương. Tuổi này vượng số lắm con. Muốn cho vuông tròn nhờ anh môi giới mối mai đưa tình!”
Làm thầy bói như Hùng Cường được nắm tay em Mai Lệ huyền, tui cũng muốn làm hết sức vì muốn cầm cái gì khác của em trước hết là mình phải cầm tay em trước. Quá đã. Mân mê một hồi cho em khoái tỉ tê rồi em hỏi: “Người ấy quê quán nơi nào giàu nghèo. Tuổi tác bao lớn sang hèn thế nào ?”
Bèn nhấp nhấp, giựt giựt cái râu dê như hề Thanh Việt và phán rằng: “Anh ta tuổi chừng hai mươi mấy. Quen lắm nhìn sơ em biết ngay. Chẳng ai xa lạ chàng ấy chính là anh, là anh đây!”
***
Lại nhớ ngày xưa mới đeo đuổi em yêu, vốn là em gái của thằng bạn học chung trường, chung lớp. Tết tới, chỉ có 500 đồng bỏ túi, tính rủ em đi ăn hủ tiếu bò vò viên trước rạp Ðại Ðồng Cao Thắng để thổ lộ tình anh.
Tình cờ gặp sòng bầu cua ở nhà em, bèn thử thời vận năm mới hên xui. Năm đó xui quá, đặt trái bầu em lắc ra ba con cua. Ðặt con cua em lắc ra ba trái bầu. Thua ạch bóc tính đứng dậy ra về thì em yêu cười chúm chím: “Ðen bạc đỏ tình. Cờ bạc anh đen nhưng tình duyên anh đỏ lắm; đưa cái tay cho em bói cho một quẻ đầu năm!” “Hết tiền rồi coi bói không có tiền quẻ đâu có linh hè?” Em cười khanh khách bảo: “Cho anh thiếu chịu, đưa tay đây cho em coi”
Ối cầm tay em hay để em cầm tay mình thì cũng rứa, cũng khoái tỉ tê như nhau mà! Tui bèn xòe cái bàn tay trái (nam tả nữ hữu) ra. Em cầm lấy, ngắm nghía một hồi, rồi cúi xuống, nhổ vào đó một bãi nước miếng.
Xem thêm : Năm 1789 Có Sự Kiện Gì
đoàn xuân thu.
melbourne
Rạch Giá thuở lên 10!
Rạch Giá nằm ven biển, có 2 con dòng nước ăn thông với nhau và chạy gần như song song, một là rạch Vàm Trư, hai là Sông Kiên, sông Cái Lớn, bắt nguồn từ rạch Cái Lớn, U Minh Thượng, quận Long Mỹ, tỉnh Chương Thiện, khi vào xã Vĩnh Thắng, quận Gò Quao, tỉnh Kiên Giang (quê của soạn giả tuồng cải lương nổi tiếng Hà Triều chung với Hoa Phượng người Núi Sập, tỉnh An Giang), rạch rộng dần ra thành sông. Từ đây, dòng sông chảy theo hướng Tây Bắc, ôm lấy một cù lao, trên đó mọc nhiều cây giá (cùng họ với mắm, đước) rồi trổ ra biển.
Thấy mặt đặt tên, những người đến trước đã đặt tên cho khu vực này là ‘Cù lao Giá’, con rạch bám riết cù lao là rạch Cây Giá. Rồi tỉnh lỵ Rạch Giá thành lập trên đất cù lao nầy.
Từ Rạch Sỏi về tỉnh lỵ Rạch Giá, có cái cổng Tam Quan. Phía trên cổng có hàng chữ “CHÂU THÀNH RẠCH GIÁ”; chiều ngược lại có hàng chữ ‘TỔ QUỐC TRÊN HẾT”.
Muốn vào tới trung tâm tỉnh lỵ Rạch Giá ngày xưa đó, bà con mình phải đi qua hai chiếc cầu quay.
(Nhắc tới cầu quay, tui lại nhớ tới Mỹ Tho, thị xã quê mình. Khoảng 1890, Tây xây cây cầu đầu tiên bắc qua kinh Bảo Định để thay thế cho những cây cầu tre thô sơ hay những chiếc đò ngang nhỏ bé.
Cầu quay Mỹ Tho theo thiết kế của ông Gustave Eiffel, tác giả của tháp Eiffel, một thắng cảnh kiến trúc lừng danh tại thủ đô Paris, nước Pháp.
Thời thực dân chiếm đóng nước ta, Tây xây cầu xe lửa Bến Lức, cầu xe lửa Tân An (bắc qua sông Vàm Cỏ Tây và Vàm Cỏ Đông) ở trong Nam; cầu Hàm Rồng Bắc Trung bộ, thuộc tỉnh Thanh Hóa (bắc qua sông Mã xa rồi Tây tiến ơi); cầu Long Biên, gần Hà Nội (bắc qua sông Hồng). Tây gọi là cầu Doumer, theo tên Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer (Mà dân mình khi kêu tên cầu như một tiếng chửi thề quân cướp nước).
Cầu quay, thoạt kỳ thủy, hoàn toàn làm bằng sắt thép vì thế giới chưa chế ra bê tông cốt sắt. Để cho tàu bè lưu thông qua lại, hai đoạn của nhịp giữa tách ra và được kéo lên cao như hình mái nhà; xong hạ xuống, hai nhịp lại ráp vào nhau cho xe cộ và người bộ hành qua lại.
Dĩ nhiên tàu bè qua lại dòng sông nầy phải chờ tới giờ công nhân dùng tay quay hệ thống ròng rọc để kéo hai đầu nhịp cầu lên cao, mở ra.
Cầu quay nhà lồng chợ Rạch Giá bắt ngang sông Kiên, nối liền khu thương mãi với khu hành chánh cũng vận hành y như thế.
Riêng cầu quay Vàm Trư, trước khi vào tới nội ô Rạch Giá, thì khi quay nhịp cầu, nó chơi kiểu khác, thụt vào đất liền, dòng rạch thông thoáng để tàu bè chạy tới, chạy lui.
Cầu Vàm Trư bị VC gài mìn giật sập vào tháng Bảy, năm 1967. Công binh VNCH xây lại cầu mới và có đặt tấm bia: “Ngày…tháng Bảy, năm 1967. Ngày Uất Hận của toàn dân Kiên Giang vì trên 30 đàn bà, cụ già và trẻ em đã thác oan nơi đây. Xin cầu nguyện cho họ”.
Tấm bia đã bị VC đập bỏ vào ngày mùng Một, tháng Năm, năm 1975, khi CS chiếm được miền Nam.
***
Tháng Sáu năm 1960, tui mới được 9 tuổi, thì thân phụ tui đổi từ quận Cái Bè, tỉnh Định Tường về làm Trưởng ty Bưu Điện Rạch Giá. Coi như được thăng chức vì từ quận lên tỉnh.
(Tỉnh Rạch Giá lớn nhứt về diện tích miền đồng bằng sông Cửu Long, dẫu vậy tỉnh lỵ lại nhỏ; nhỏ nhưng trù phú; vì vừa có rừng vừa có biển. Năm 1960 Đại tá Hoàng Văn Lạc, làm Tỉnh trưởng; ông nầy lon lá hơi to; thường chỉ cấp bậc Thiếu tá mà thôi. Còn ông Phó hành chánh là Nguyễn Văn Nam. Hai ông nầy là ‘xếp’ của thân phụ tui, theo hàng ngang. Còn theo hàng dọc, Ty Bưu Điện trực thuộc Nha Bưu Điện Nam Phần đóng tại thủ đô Sài Gòn.)
Ngày dọn đi, ông quận trưởng Cái Bè Nguyễn Bá Cẩn (sau làm tới Thủ tướng cuối cùng của chế độ VNCH mình) cho xăng và tài xế để chở ba, má với 6 anh em tôi, cùng con chó Ki Ki (của ông quận đoàn trưởng Công Dân vụ quận Cái Bè cho lại trước khi ông lên đường đi Mộc Hóa, tỉnh Kiến Tường để đáo nhậm nhiệm sở mới) trên một chiếc xe bán tải (pick-up) Citroen trực chỉ qua Bắc Mỹ Thuận, Bắc Vàm Cống. Khởi hành từ 8 giờ sáng, chạy hoài chạy hủy, tới 4 giờ chiều mới tới Bưu Điện Rạch Giá nằm ở số 2 đường Tự Đức.
Ông ngoại tui từ quê theo tiếp con gái, con rể để dọn nhà. Tới nơi mệt quá, nằm lăn ra ngủ. Được một lát, miệng ú ớ la, rồi choàng tỉnh, mặt xanh lè, xanh lét. Ông ngoại tui gặp ‘quỷ’; vì đang nằm ngủ có một ông mặt đằng đằng sát khí đến, kéo giò hỏi: “Chú em là ai? Sao lại dám đến đây?” Má tui thuật lại chớ tui không dám đặt chuyện đâu nhe, thưa quý bà con.
Chắc vì tin tưởng có người khuất mày, khuất mặt như vậy nên thân mẫu tui rất siêng đi chùa. Mỗi lần rằm lớn, má đều dắt tui lên chùa Tam Bảo, hay gặp thầy Thành, dạy tui lớp Nhứt trường tiều học tỉnh ly Rạch Giá, mặc áo dà, chắp hai tay lâm râm đọc kinh Phật. (Lúc đó ông Mã Sanh Long làm Trưởng ty Tiểu học).
Rằm tháng Bảy, cúng cô hồn các đảng, thì đi chùa Thập Phương. Trên vách tường có vẽ mấy cái hình quỷ sứ cưa hai người ta đem nấu dầu; hình người ngồi trên bàn chông đầu đội chậu máu, những hình phạt tàn khốc cho kẻ làm ác ở thế gian. Coi ghê lắm. Lúc má kêu vào ngồi bàn đàng hoàng ăn cơm chay, tui no ngang hông hè, nuốt hổng vô, bèn buông đũa ra thơ thẩn phía sau chùa kế một dòng kinh. Cảnh vật coi êm đềm, u tịch.
Trước cổng chùa, có một chú tiểu ngồi vắt vẻo bên cạnh cái thúng, thí cô hồn, ném xuống nào là mía, bắp, khoai mì, khoai lang luộc, bánh tét, bánh ít… Có cả tiền cắc, tiền giấy, nhiều nhứt là 5 đồng. Đứa cô hồn nào giựt được khoái chí, la inh ỏi.
Nhỏ tuổi, nhỏ con, giựt không lại đám cô hồn sống nầy, đành chịu thua, tui làm khán giả đứng coi chơi.
(Có lẽ từ đó, học được bài học nầy, lớn lên ra đời thấy thiên hạ giành danh, giành lợi, giành gái, la chí chóe; tui chỉ lặng lẽ chuồn êm. Vì trong cái vòng danh lợi cong cong đó mình không đủ sức).
***
Ngang Bưu Điện, cũng ở trên đường Tự Đức, số 1, bên tay trái, là công quán. Lâu lâu gánh cải lương về hát ở rạp Đồng Thinh bên chợ là mấy ông kép chánh đến trọ ở đây. Trong đó có danh ca Minh Chí, vua xàng xê, hát cho đoàn Minh Chí Việt Hùng.
Thuở ấy là thằng nhóc mới 9, 10 tuổi thôi nhưng rành sáu câu như vậy vì Tía tui ngoài làm cho Bưu Điện, còn có thêm nghề tay trái là ký giả kịch trường nên mấy đoàn hát về Rạch Giá, soạn giả Bạch Diệp Minh Nguyên hay gởi thiệp mời và Tía tui luôn dẫn tui theo coi chơi.
Ngoài ra Rạch Giá còn hai rạp hát chiếu bóng là rạp Hòa Lạc và rạp Châu Văn ở đường Phó Cơ Điều gần bến xe đi Sài Gòn.
Nhớ Noel năm 1961, rạp Châu Văn chiếu phim Nhựt Bổn “Quỷ đồng đen”, mặc áo giáp sắt đi nhát con nít. Coi phim xong về ngủ nằm mơ thấy ‘quỷ’ không hè.
Rạp Châu Văn bề thế, nhiều ghế ngồi hơn rạp Đồng Thinh nên đại ban nào cỡ Thủ Đô của ông bầu Ba Bản, chủ hãng dĩa Hoành Sơn, về mướn, hát tuồng dã sử ‘Tiếng trống sang canh’ của soạn giả Thu An.
Vai chánh vua Lê Long Việt do vua vọng cổ Út Trà Ôn đóng, mặc hoàng bào bị em mình, hôn quân Lê Long Đỉnh, rượt phải chạy tuốt vô rừng. Sương xuống lạnh, tuyết (bằng bông gòn) thả xuống rơi rơi, chơi luôn 6 câu vọng cổ muồi rệu nên ăn khách tợn.
Ngoài ra còn có người khổng lồ cao tới 2 mét 2 (tên là Nguyễn Văn Dữ quê ở Ba Tri, Bến Tre) theo xe ngựa đi phát quảng cáo, kích thích sự tò mò của bà con mình nên càng ăn khách tợn hơn nữa.
***
Nhắc tới Rạch Giá là phải nhắc tới nhà lồng chợ, nơi bán cái gì cũng ngon hết ráo. Mà nổi tiếng nhứt là bún cá nên có câu rằng: “Lần đầu ăn tô bún cá. Chạy dìa Rạch Giá bỏ má theo em!”
Tấm tắc khen, ca tụng bún cá Rạch Giá của người em xứ Kiên Giang như vậy là đụng la phông rồi. Bún cá ngon, ham ăn đến nỗi thành thằng con bất hiếu.
Giống như mấy đứa con nít khác, cùng tuổi, thèm đường, hảo ngọt (giờ già khú đế rồi tui vẫn còn ‘hảo ngọt’) khoái ăn bánh bao ngọt của tiệm cà phê Quách Xái bên hông chợ, giá 2 đồng một cái.
Nhưng ba tui lại thích ăn sáng bằng bắp với xôi. Bắp giã, hột bắp xay sơ sài rồi đem hầm, trắng nõn, ăn với dừa rám nạo, rắc đường với lại muối mè. Ngoài ra còn xôi nước dừa, xôi nghệ. Vừa ngon vừa rẻ cũng chỉ tốn 2 đồng. Mấy đứa em tui thì khoái bánh bò, bánh da lợn, bánh tằm nước cốt dừa.
Còn cái xe bán mì hủ tiếu ở đường Phó Cơ Điều nữa chớ. Nhớ một hôm, tui ngủ sớm, giựt mình dậy, nhà vắng hoe; mới hay ba má dắt đám em mìmh qua đó ăn hủ tiếu mì.
Tui bèn lấy chiếc xe máy (hồi xưa gọi là xe máy nhưng không có gắn cái máy nào hết, tức xe đạp bây giờ) chạy theo. Chiếc xe đạp đòn dông cao, tui lại lùn beo, đâu đủ thước tấc để ngồi lên yên xe mà chạy. Bèn thọt cái chân ngang qua cái khung hình tam giác, đạp cà ẹo, cà ẹo nhưng vẫn chạy vo vo như người ta làm xiếc.
Qua cầu Cá chợ Rạch Giá quẹo tay trái chạy dọc bờ sông, xe đạp cán cục đá, tui té xuống, dộng đầu xuống mặt lộ nghe cái cốp. Tới nơi, được má cho ăn tô hủ tiếu mì lớn, ngon hết biết, mà vẫn còn hoa mắt, đầu vẫn quay mòng mòng.
Tối hôm đó về, nửa khuya lên cơn sốt, tui ói hết tô mì ra gối. Mở mắt nhìn lên, thấy má tui đang chườm nước đá lên cái trán nóng sâm sấp của mình.
Sau nầy lớn lên mới biết là tui bị té nặng đến nỗi chấn thương đầu, chưa nứt sọ để đi chầu ông bà ông vải đã là may. Chắc ông Trời bắt tui phải sống trên cõi đời ô trọc nầy mà trả cho xong nợ tiền kiếp cho con vợ của tui sau nầy.
Ôi! Nếu có kiếp sau, Diêm Vương hỏi: “Ê đầu thai trở về dương thế, chú mầy có muốn sống sướng như Tổng thống Mỹ Donald Trump tối ngày ăn cho no mập rồi đi nói dóc hay không?”
“Dạ không! Chỉ xin Diêm Vương cho tui được tiếp tục làm con của má tui thế thôi!”
Cầu Vàm Trư. Rạch Giá.
Xem thêm : Năm 1789 Có Sự Kiện Gì
đoàn xuân thu.
melbourne
Mùa Xuân sao lại lạnh?!
Bà con mình, dù lương hay giáo, cứ mỗi độ mùa Giáng Sinh về, đều nghe lời hát: “Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời. Chúa sinh ra đời nằm trong hang đá nơi máng lừa…”
Nghĩa là Giáng Sinh mùa phải lạnh, tuyết rơi lã chã trắng trời; xe tuần lộc, tiếng lục lạ reo vui chở ông già Noel đi phát quà cho trẻ con, chạy băng băng trên những con đường, mặt lộ là băng giá.
Nước Mỹ, thuộc bắc bán cầu, mùa đông, mùa Giáng Sinh về lạnh quéo, thở khói quanh mồm; Úc, thuộc nam bán cầu, mùa hè, mùa Giáng Sinh về nực muốn khùng, thở ra toàn hơi beer. Phải làm vài chai cho đã khát…
Hồi xưa trước khi ai bao năm từng lê gót nơi quê người, tui cứ tưởng tượng là Giáng Sinh về mùa phải lạnh.
Lạnh mới nên thơ chớ. Để tìm chút ấm, mình ngồi xáp lại gần em yêu, tay cầm ly vang đỏ, tiếng lò sưởi chạy bằng ga kêu tí tách mà trời bên ngoài tuyết vẫn rơi rơi.
Đó chỉ là tình mộng chớ mùa Giáng Sinh ở Úc nầy mới xáp lại gần em, để tình thương mến thương là em nạt: “Xê chút ra!Nực nội quá hè!” Nghe mà tan nát cái lòng… thòng!
Tui có cái tật xấu là đêm nào lai rai vài ba sợi là lên facebook, gọi mấy thằng bạn cũ đang trên bước đường lưu lạc tận Hoa Kỳ để phá nó chơi.
Cái lạ là cái tật xấu nầy mấy thằng bạn học, bạn lính của tui lại khoái mới chết. Tui gọi là nó trả lời ngay vì tụi nó cũng cô đơn, bị em yêu ‘cấm vận’ y chang tui vậy đó. Mùa đông Hoa Kỳ lạnh thấu xương mà em lại không cho run run tìm hơi ấm… để đợi xuân về.
Tui có thằng bạn lính, đi HO, được một gia đình người Mỹ bảo trợ về gần Ngũ đại hồ, tiểu bang Minnesota, mà nó dịch ra tiếng Việt là ‘Mỹ nó sợ ta’.
Mỹ nó sợ ta hay không thì tao không biết nhưng tao sợ mùa đông nước Mỹ! Chu choa nó lạnh ác ôn luôn! Trên một vùng đất hoang vu đẹp tuyệt vời, thác Minnehaha đóng băng nhưng tao không dám đến thưởng ngoạn vì ra ngoài trời, chỉ hơn nửa giờ, dù có áo ấm mấy lớp đi chăng nữa cũng có thể chết nghe em!
Hồi năm 2017, Minnesota nhiệt độ xuống tới trừ 37 độ C, phá kỷ lục cũ là trừ 32 độ vào năm 1924.
Lạnh đến nỗi nước đang sôi trong chảo biến thành tuyết ngay khi được hất ra ngoài trời. Khi mình vắt sữa bò thì mình được cà rem. Khi mình vắt sữa trâu thì mình lại được chocolate. Rồi tạp chí khiêu dâm Playboy phải đình bản vì trời lạnh quá hổng em nào chịu cởi truồng hết trơn cho tụi mình coi hè!
Nghe nó than như vậy, tui hỏi: “Sao mầy không chuyển về Little Saigon, tiểu bang California, một trời nắng ấm?”
“Cũng muốn lắm chớ! Vì ngoài thời tiết Little Saigon quá đã mà mấy em Mít của mình bên ấy mặc ‘bikini’ bán cà phê sữa, trông còn đã hơn nữa.
Nhưng lực bất tòng tâm! tiền tao không có. Căn nhà 3 phòng ở Minnesota, trả hết nợ ngân hàng, sau nhiều năm vợ chồng cày bừa cật lực, chỉ giá có 250 ngàn đô Mỹ. Với số tiền đó vác về Cali, tao chỉ có thể mua được túp lều của chú Tom.
Tui lại hỏi: “Lạnh quá rồi làm sao sống cho được chớ? Nên nhớ mình là dân nhiệt đới, đến Mỹ từ miền Nam mưa nắng hai mùa. Mưa ở trần chạy nhong nhong ra đường tắm mưa cho mát; mùa nắng cũng ở trần mặc cái quần ‘xà lỏn’ đeo tòng ten cái đồng hồ quả lắc, chỉ có cây kim giờ, đi khắp xóm. Em nào nhìn thấy cũng buột miệng xuýt xoa khen là ‘của quý’!
Chân ướt chân ráo tới đây mình cũng học dân bản xứ cách mưu sinh thoát hiểm, chống lạnh để sống sót tới mùa xuân? Một là vợ nói gì thì mình nghe đó; sai gì thì mình làm ngay; đừng cù cưa, cù nhằn hẹn mai, hẹn mốt. Bị vợ đì sói trán cũng rán mà chịu vì em độc quyền cái lò sưởi 37 độ rưởi. chạy bằng cơm.
Em giận lẫy là tối mình phải nằm chèo queo, buốt giá là nó héo queo hết ráo.
Hai là coi người bản xứ chống lạnh như thế nào để mình bắt chước.
Hồi mới được gia đình người Mỹ bảo trợ tuốt lên cái xứ lạnh nầy đây, vợ chồng cứ nhủ lòng rán tồn tại một vài năm đầu rồi tính tới.
Tao mua căn nhà của vợ chồng ông Mỹ già để có chỗ che bão tuyết mùa đông. Thì em yêu cản: “Đừng mua, mắc kẹt ở đây, lạnh chết!”
Hai vợ chồng ông Mỹ già trấn an rằng: “Vợ chồng tao ở đây cả mấy chục năm, mấy chục mùa tuyết đổ cũng đâu có chết chóc thằng tây nào. Mua đi rồi vợ chồng ‘qua’ sẽ truyền bí kiếp chống lạnh lại cho hai em mà! Đừng có lo!”
Trả tiền xong xuôi, dọn vô nhà, mùa đông Minnesota đang tới bên thềm cửa. Bão tuyết ngoài trời; trong phòng lò sưởi bật tối đa mà tường vẫn thở ra hơi khói lạnh. Đun một chảo nước sôi tạt ra ngoài cửa để đi không trơn trợt; nước sôi trong chảo biến thành bông tuyết phất phới bay.
Vậy là bốc ‘phôn’ lên hỏi vợ chồng ông chủ nhà cũ, bí quyết chống lạnh là gì? Lão cười he he nghe rất đểu: “Ờ mỗi mùa lạnh về, khi đàn ngỗng trời kêu quang quác xuôi nam thì vợ chồng ‘qua’, giống như ngỗng, bay về Florida đó chú em!”
Bị Mỹ gài thế đành chịu trận; nhưng lâu rồi đời mình sẽ quen. Ông Trời rất công bằng. Thiệt cái nầy thì Trời bù lại cái kia.
Xứ lạnh mình ăn nhiều, da có lớp mở kha khá dầy; chớ hối còn kẹt trong nước, ốm o gầy mòn như con khỉ mắc phong; qua đây ai cũng thêm ít nhứt là chục ký. Lên cân, tốn tiền mua quần áo mới; nhưng an ủi một cái là da mặt mỡ màng, căng mộng! Em yêu gần 61 mà nhìn tưởng chừng 16; còn mình 64 nhìn tưởng chừng mới 46 thôi.
“Năm rồi, tao về Sài Gòn, thăm bà già bị bệnh nặng Trời nóng ẩm quá, cỡi trần ngồi hóng gió trước hiên nhà, em bán vé số ngang qua mời anh Việt kiều mua dùm em một tấm vé số xổ liền.
Ngạc nhiên hỏi: “Sao em gái biết anh là Việt kiều mà không phải là Việt cộng?” Em cười lỏn lẻn trả lời: “Việt cộng nó đen thùi lùi hè; còn Việt kiều nó trắng nỏn đó anh hai!”.
***
Thằng bạn lính nhân cơ hội nầy giảng cho tui thêm một bài về địa lý. Nó nói hồi xưa mình đọc nhản thuốc lá Pall Mall của Mỹ là: “Phải anh là lính mời anh lên lầu!”. Chí lớn gặp nhau, bên ni. Mỹ đọc tên Ngũ Đại Hồ “HOMES” (nhiều nhà”), tức là Huron, Ontario, Michigan, Erie và Superior.
(Ngũ là năm, đại là bự, hồ là cái hồ) là năm hồ nước ngọt lớn nhất thế giới, từ Hoa Kỳ ăn tuốt qua Canada
Hoặc “She Made Harry Eat Onions (“Bà ấy bắt Harry phải ăn hành”) tên 5 cái hồ, xếp từ tây sang đông.
Các hồ, mùa hè giữ nhiệt, mùa đông sẽ làm bớt cái giá băng nhưng Ngũ Đại Hồ năm nào cũng băng giá.
***
Bà con mình thường nói: Bên Mỹ chuyện gì cũng có thể xảy ra được hết ráo!” Quả có vậy!
Nhân mùa Giáng Sinh lạnh bà con mình cũng nên đọc qua chơi mấy câu chuyện có thật nầy để ‘rút sợi dây kinh nghiệm’.
Mùa đông đường dẩn nước trong nhà thường bị đóng băng. Để có nước pha cà phê, uống cho ấm, chú em Mỹ bèn de xe lại gần cửa sổ đang mở để ống bô xịt khói vào nhà giúp tan băng.
Kết quả tan băng đâu không thấy, chú em, vợ và ba đứa con được xe hồng thập tự chở vô nhà thương cứu cấp vì ngộ độc khí ‘carbon monoxide’.
Rồi một buổi sáng mùa đông lạnh giá, không thể khởi động xe, George chẩn đoán xăng bị trong bình bị thành đá cục hết rồi. Nên chú em đem cái bình xăng chục lít dự trử trong nhà xe cũng bị đóng băng, đặt lên cái bếp ga để sưởi cho nó ấm, rồi đổ vô bình xăng xe.
Hậu quả cái bình nổ cái ‘bùm’, văng tùm lum làm phỏng luôn cái mặt điển trai như diễn viên hài hải ngoại Hoài Linh (đang về kiếm ăn trong nước).
***
Mùa đông cũng là mùa Giáng Sinh, mùa vui… nhưng có chuyện vui muốn khóc.
Vốn là một đứa con cá biệt, chú em không muốn đánh thức bố mẹ mình; vì sợ bị dũa te tua vì vi phạm lệnh giới nghiêm, cấm sau 9 giờ tối không được trốn đi chơi lễ Giáng Sinh cùng chúng bạn.
Về nhà muộn, chú em lên ống khói tuột xuống để vào nhà; nhưng thân thể phì nộn, mập như con heo nên chú em mắc kẹt trong ống khói. Leo lên không được; tuột xuống không xong; chỉ còn cách chổng mông là bố ơi cứu con với.
Lính cứu hỏa và cảnh sát từ thành phố Oak, tiểu bang Michigan, Hoa Kỳ, đến để giải cứu chú em ra khỏi ống khói; rồi xe hồng thập tự chở chú em thẳng vô nhà thương xức thuốc đỏ cho những vết xước, xức dầu cù là lên những vết tím bầm.
Cái kinh nghiệm hơi hoảng hốt và đau đớn nầy đã dạy cho chú em một bài học là: Bao giờ cũng nên dùng cửa để vào nhà hơn là qua cái ống khói của lò sưởi.
Chú em nầy phần số cũng còn may mắn lắm. Có tay chuyên nhập nha ăn trộm cũng làm y như thế, mắc kẹt trong ống khói, hổng ai hay. Mười năm sau, khi còn là một xác quắt queo vì bị xông khói người ta mới biết tại sao chú em hành nghề đạo chích nầy đột nhiên mất tích.
Rồi hai ngày trước Giáng Sinh, Jimmy lái môt chiếc xe buýt nhỏ để chở 12 tù nhân đi điều trị bức xạ tại một bệnh viện gần đó.
Giáng Sinh là ngày vui, nên tù nhân mời Jimmy một ly. Vì vậy, họ dừng lại ở quán rượu Rose và Crown, Ai cũng có một ly chúc mừng nhau Merry Christmas.
Uống xong Jimmy đi ‘xì trum’. Xong ra, tất cả các tù nhân đã biến mất. Jimmy lái xe vòng vòng hơn nửa tiếng đồng hồ để kiếm mấy ngài bạn quý của mình. Nhưng bóng chim tăm cá.
Làm gì bây giờ? Cái khó là nó ló cái khôn hè. Xưa giờ cũng vậy. Jimmy bèn dừng lại một trạm buýt nơi khách đang chờ xe để về nhà ăn mừng lễ Giáng Sinh.
“Mại dô! Mại vô! Xe buýt miễn phí cho ai muốn về nhè nè. Nhưng chỉ đúng 12 chỗ thôi. Ai lẹ chân thì còn; chậm chân thì rán đợ!”
Nghe vậy, 12 ông vội leo lên ngồi và Jimmy chở họ thẳng vô nhà tù. Xong đánh xe chuồn mất.
Thật đáng ngạc nhiên, cái trò láu cá của tên tài xế nầy chỉ được phát hiện vào năm mới. 12 ông khi khổng khi không bị ở tù một cách lãng nhách hè.
Xem thêm : Năm 1789 Có Sự Kiện Gì
đoàn xuân thu.
melbourne
Rạch Giá thời thơ ấu.
Khác với các địa danh như Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu nguyên là từ tiếng Khmer, Rạch Giá là do ông bà mình đặt tên. Rạch là con sông nhỏ. Giá là cây giá.
Con sông nhỏ gần ra biển, hai bờ có cây giá ken dầy. Rải rác vài cây giá khá to, lá xanh, khi về già chuyển sang màu đỏ chớ không đổi ra lá vàng. Rễ cây giá không to, chằng chịt quấn vào nhau theo vòng tròn, sóng đánh mạnh, gió thổi ù ù thì thân cây cứ lúc lắc qua phải, qua trái. Rễ không ăn chặt vào đất bùn như cây mắm, cây tràm, cây đước. Vùng đất đó gọi là Rạch Giá đấy thôi.
Còn xa biển phía trong nầy là truông, đầy lau sậy. Chính vì thế mà “Anh đi Rạch Giá qua truông. Gió rung ngọn sậy ngồi buồn nhớ em!” Thời trước đất đai hoang vu, heo rừng khoái lau sậy non lắm. Heo rừng sống lâu năm, có hai cái răng nanh dài và nhọn hoắt, có thể chống lại cọp dữ. Từ Rạch Sỏi vào Rạch Giá mình gặp con rạch nhỏ, hai bên tràn lan dừa nước (cây của vùng nước lợ) bà con mình gọi là rạch Vàm Trư. (Trư là con heo đó ạ; nhưng là heo rừng). Tây tới cất cây cầu quay, cầu Vàm Trư. Ðể thuyền bè qua lại là nó thụt vô chớ không chổng đầu lên như cầu quay ở gần nhà lồng chợ Rạch Giá.
Cầu quay gần nhà lồng chợ Rạch Giá bắc ngang sông Kiên, nối liền khu thị tứ với khu hành chánh. Sông Kiên là sông Cái Lớn bắt nguồn rạch Cái Lớn, quận Long Mỹ, tỉnh Chương Thiện, U Minh Thượng. Rạch Cái Lớn rộng dần thành sông khi vào xã Vĩnh Thắng, quận Gò Quao tỉnh Kiên Giang. Từ đây sông chảy theo hướng Tây-Bắc đổ ra biển tại tỉnh lỵ Rạch Giá. Sau này, đường bộ phát triển lấn át đường sông, cầu không còn quay nữa, thay bằng cầu bê tông cố định. Vì hai bên cầu, phía nhà lồng chợ Rạch Giá, năm 1919, Tây cất hai cái chợ cá, chợ cá đồng và chợ cá biển nên bà con mình gọi là cầu Chợ Cá.
***
Ca dao về Rạch Giá có câu: “Chợ Sài Gòn cẩn đá. Chợ Rạch Giá cẩn ‘xi mon’ / Giã em ở lại vuông tròn / Anh về xứ sở, không còn ra vô”. ‘Xi mon’ phát âm theo phương ngữ miền Trung chính là ‘xi măng’ theo phương ngữ miền Nam. Anh vốn ở miền Trung, lang bạt vào vùng Rạch Giá, rồi trở lại quê nhà, bỏ lại em yêu, lòng đau như cắt. Vĩnh biệt tình ta, lời trăn trối!
Ngoài ra Rạch Giá còn có người Khmer, người Hải Nam (bán cơm gà, cơm thố, ngon lắm. Hồi nhỏ, tui được ba má dẫn cho đi ăn chỉ một lần mà nhớ tới bây giờ. Nhớ cái bùi bùi của cơm do hạt gạo hấp trong thố, nhớ cái màu vàng ươm của miếng thịt gà bày ngay ngắn trên cái dĩa trẹt.) Rồi người Triều Châu, chuyên cần làm rẫy hoặc cuốc khoai trên những giồng đất gần biển.
Cầu quay gần nhà lồng chợ Rạch Giá ngày xưa.
Nhiều sắc dân chung đụng như vậy nên con gái Rạch Giá đẹp một cách não nùng.”Tháng hai tháng ba anh đi chở cá / Không khá anh qua Rạch Giá chở khoai lang / Tìm người bạn ngọc thở than đôi lời / Biết làm sao lên đặng ông trời / Hỏi thăm duyên nợ đổi dời về đâu?
Từ nhà lồng chợ Rạch Giá đi qua cầu Chợ Cá, băng ngang công trường Thủ tướng Thinh (1888-1946), là tới ngay trước cổng Ty Bưu Ðiện. Phía sau lưng Ty Bưu Ðiện, cách một con đường, là Ty Công An. Con đường nầy dẫn ra biển, chạy ngang Dinh Tỉnh trưởng có trồng mấy hàng sao. Chiều chiều những con cồng cộc, một loài chim bói cá, bay về rợp, đậu đen đầu trên những nhánh cây sao.
Con đường phía bên phải Ty Bưu Ðiện chạy thẳng luôn sẽ tới bến xe đi Hà Tiên, chỉ lèo tèo vài chiếc xe đò nhỏ hiệu Renault. Trước khi VC dậy, có xe đò từ Sài Gòn chạy Rạch Giá tới thẳng Hà Tiên. Chạy luôn cả ban đêm vì đâu có giới nghiêm. Năm 1961, có lần VC phục kích đoàn công voa của lính Bảo An (Ðịa phương quân) qua khỏi cầu số Ba, làm chết một ông đại úy. Những ngày yên bình của chế độ Ðệ nhứt Việt Nam Cộng Hòa dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Ngô Ðình Diệm sắp chấm dứt. Rạch Giá quê mình bắt đầu vào cơn binh lửa.
***
Danh sĩ đất Rạch Giá Huỳnh Mẫn Ðạt đã từng làm câu đối: “Hỏa hồng Nhựt Tảo oanh thiên địa! Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần!”
Nhựt Tảo và Kiên Giang là địa danh ghi lại hai chiến công ‘kinh thiên động địa’, lừng lẫy của ông Nguyễn Trung Trực. Ngày 10 tháng Chạp 1861, ông Nguyễn Trung Trực cùng nghĩa quân đốt cháy tàu L’Espérance (Hy Vọng), án ngữ nơi vàm Nhựt Tảo (nay thuộc xã An Nhựt Tân, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An). Vào 4 giờ sáng ngày 16 tháng Sáu năm 1868, ông Nguyễn Trung Trực và nghĩa quân từ Tà Niên (nay là xã Vĩnh Hòa Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang) được nội ứng giúp sức, đã đánh úp và chiếm được đồn Kiên Giang do Trung úy Sauterne chỉ huy. Có hai tên sĩ quan Pháp may mắn chạy thoát được ra ngoài, len lỏi trốn tới một xóm nhà thưa thớt, gặp cái tiệm bán hàng xén của người Tàu lai Khmer! (Mới hừng sáng, sao có hai thằng Tây hớt hải chạy đến, xin trốn vào nhà bếp. Ðành phải cho nó trốn!)
Khi quân Pháp từ Sa Ðéc kéo xuống tái chiếm tỉnh lỵ, ông chủ tiệm tạp hóa đưa hai tên lính Pháp may mắn sống sót trở về; được Tây thưởng công, phong cho chức Cai tổng. Có chức có quyền, ông Cai tổng nầy xin Pháp cho mình trưng khẩn những phần đất tốt trong tỉnh, rồi cho tá điền mướn lại để thâu lúa ruộng, trở nên giàu có. Con cái qua Pháp du học; rồi đi luôn không về xứ nữa.
Nghĩa quân làm chủ Rạch Giá được 3 ngày, quân Pháp phản công ác liệt, ông Nguyễn cùng nghĩa quân rút ra Phú Quốc. Ngày 19 tháng Chín 1868, tên quan tư của Pháp chỉ huy 125 lính mã tà tấn công Hàm Ninh, Dương Ðông. Cuộc chiến diễn ra rất ác liệt, ông Nguyễn bị thương, sa vào tay giặc. Thực dân Pháp dụ hàng nhưng ông Nguyễn khẳng khái từ chối: “Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh Tây”.
Chưa đầy một tháng sau, ngày 27 tháng Mười 1868, giặc Pháp đem ông Nguyễn và một số nghĩa quân ra pháp trường, là một miếng đất trống, có cây da ở giữa, (tức công trường trước cổng Ty Bưu Ðiện sau nầy) để xử chém.
“Sanh vi tướng, tử vi thần!” Ông Nguyễn linh thiêng lắm. Người dân kính phục người đã bỏ mình vì nước, lập đền thờ ông Nguyễn Trung Trực và bộ tướng là Phó cơ Nguyễn Hiền Ðiều (Rạch Giá có đường Phó Cơ Ðiều, học Sử tui không nghe nói đến, giờ mới biết), phó Lãnh binh Lâm Quang Ky, và các nghĩa quân đã bỏ mình vì nước.
***
Hồi đó, chiều Thứ Bảy Tây hay có một đội kèn đồng thổi kèn ‘tò le’ đi vòng vòng thị tứ. Có người cho rằng Tây cho thổi kèn để xua đuổi những oan hồn uổng tử, bởi lúc đánh chiếm lại đồn Rạch Giá nghĩa quân của mình chết khá nhiều nhưng không ai chôn cất vì thời xưa đất gần đồn là rừng rậm, dân cư gần như không có.
Tui không nghĩ như vậy, vì những người quyết tử cho tổ quốc mến yêu thì đâu có phải là oan hồn uổng tử (?!). Những vị anh hùng vị quốc vong thân nầy tự quyết định đi vào chỗ chết để dân mình không phải sống đời nô lệ cho Tây.
Mãi sau nầy, năm 1960, cứ mỗi chiều Thứ Bảy, tui vẫn còn thấy một tiểu đội kèn đồng của tiểu khu sắp hàng, vừa đi vừa thổi kèn, đánh trống. Ðầu hàng là một ông trưởng ban quân nhạc, đánh nhịp bằng cái thanh bằng đồng sáng choang, đầu nhọn có kết tua. Hàng kế là mấy ông thổi kèn ống. Rồi mấy ông đeo cái trống trước bụng, vỗ thùng thùng. Hàng cuối có ông mang cái kèn mà miệng nó to tổ nái. Tui nghĩ, nếu lỡ trời mưa ông chỉ cần quay ngược cái kèn, chụp lên đầu là không bị ướt. Ðó là nét đẹp về văn hóa, có từ thời Tây, thời VNCH mình vẫn còn giữ đó thôi!
***
Sau 75, bà con mình lũ lượt bỏ phiếu bằng chân, ra biển. Số người vượt biển chắc thủ đô Sài Gòn là nhiều nhất, vì dân đông. Nhưng tính theo tỉ lệ trên số dân tui e rằng dân Rạch Giá (sát biển) sẽ đứng đầu bảng.
Ðêm cuối năm, quê người, tui chợ nhớ rạch Vàm Trư. Nhớ gần biển, nước chảy thao thao, lục bình trôi từng giề, riu ríu, đơm bông màu tím dợt, đẹp; nhưng mềm yếu, cắt đem chưng vào bình chừng mươi phút đà héo rũ.
“Lênh đênh bèo nước biết về đâu?” Ðời tui vậy đó bà con ơi! Chỉ hai năm ở Rạch Giá rồi theo Ba tui đổi đi nơi khác, nhưng tình hoài hương, hình bóng cũ, con đường xưa – hơn 60 năm rồi mà cứ tưởng như mới hôm qua.
Xem thêm : Năm 1789 Có Sự Kiện Gì
đoàn xuân thu.
melbourne
ĐỌT CHOẠI!
Cần Thơ được xưng tụng là Tây Đô, vì cái thế đắc địa, nằm giữa miền Tây trù phú. Cần Thơ trai thanh gái lịch, có con vợ tui nữa đó nhe (lâu lâu cũng khen xạo em một tiếng, chỉ tối ngày ngợi ca mấy em khác thì em yêu của mình đổ quạu, lãng công, không cơm nước gì ráo thì báo! Nước sôi mì gói hoài chịu sao thấu?)
Tuy nhiên so với Cần Thơ thì Rạch Giá không kém cạnh gì. Bên tám lạng đằng nửa cân. Cần Thơ ruộng phì nhiêu, vườn cây trái sum xuê; dòng sông Hậu mênh mông nhiều tôm cá thì Rạch Giá có biển rồi còn có cả rừng.
Rừng U Minh thượng; còn U Minh hạ ở miệt Cà Mau. U Minh được hiểu là mờ mờ, mù mịt như cõi u minh chốn địa ngục! Vì trên là rừng tràm, dưới là dừa nước, dưới nữa là cỏ lác, nên mặt trời ít khi rọi tới, mới chiều xuống đã thấy tối thui. Xèo, rạch đi ngoằn ngoèo, đô bờ lá dừa nước gie ra um tùm. Muốn đi qua phải dùng rựa đốn vẹt hai bên. Vùng đất xa xôi, hoang sơ, khắc nghiệt, hiểm trở nhiều thú dữ, bệnh sốt rét, muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội lềnh tựa bánh canh.
Những lưu dân ngày đó cùng đường mạt lộ, trốn thuế thân, những tá điền hoàn cảnh ngặt nghèo, vợ ốm con đau nhà ngập nước, không có lúa đong cho điền chủ hoặc người trốn nợ.
Rồi cũng có trai gái yêu nhau, mà môn không đăng; hộ không đối, nhà gái không chịu gả hoặc nhà trai không chịu cưới, hai đứa chỉ còn cách bỏ nhà, trốn vào rừng U Minh để giữ lời hải thệ sơn minh; sống đồng tịch đồng sàng, chết đồng quan đồng quách.
Rừng U Minh với cơ man là kinh rạch. Đôi mình dắt díu nhau vô đây, trên chiếc xuồng ba lá, gồm có hai tấm ván be và một tấm ván đáy. Ôi cái xứ: chèo ghe sợ sấu cắn chưn. Xuống sông sợ đỉa, lên rừng sợ ma. Tới đây xứ sở lạ lùng. Chim kêu cũng sợ, cá vùng cũng ghê.
Ghê thiệt nhưng nẻo về đã khép đành rị mọ tìm đến chổ nào hơi cao ráo một chút để đôi ta che chòi mà ở. Vì chàng đi cho thiếp theo cùng. Đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam.
Nói nghe bi thảm thiệt nhưng cái vụ đói là hổng có rồi. Những lưu dân cùng khốn đó chỉ cần khoét lõm ruộng chừng vài công, cấy lúa mùa chỉ sáu tháng là có gạo mặc sức ăn, nhưng không có dư để bán, vì rừng U Minh đất xấu, nhiễm phèn nặng một công trúng lắm chỉ 5, 3 giạ là cùng.
Bù lại cá ục dưới rạch như nước cơm sôi, thò tay xuống mà vớt lên cả rổ. Tới mùa khô, nước cạn cá theo ra rút hết xuống mấy cái vũng, đìa, lung, bàu. Mấy con cá nầy, biết thân phận trước sau gì cũng lên bàn nhậu, nên thiệt là lịch sự, chúng gom về một chỗ vừa đông vui, vừa chờ bà con mình lội vô tát đìa bắt cá mà ăn Tết.
Cá nhiều ăn đến nỗi ăn không hết phải phơi khô, làm mắm ăn dần. Còn rắn, rùa, kỳ đà, heo rừng, ba ba nhiều vô số kể. Toàn là thứ đồ nhậu rất bắt nên bây giờ chúng leo vào đứng đầu bảng, chữ VC xài là đặc sản, trên cái thực đơn của những nhà hàng sang trọng nhứt trên Sài Gòn để phục vụ đám cán bộ tiền bạc thừa mứa do ăn cướp đất của dân.
***
Em yêu hay cằn nhằn sao người viết rảnh rỗi một chút là tụ bè tụ đảng đi nhậu hoài hè không chịu ở nhà hú hí với em? Người cầm bút phải giao thiệp cho biết đó biết đây, biết chuyện nầy chuyện nọ mà viết bài; chớ ở nhà với vợ biết ngày nào khôn?
Tuần rồi, thằng bạn mời đến nhà nhậu vì ông già vợ nó từ Miệt Thứ quê mình bay xuống chơi Miệt Dưới (Down Under).
Ông già vợ nó bằng tuổi tui, làm tui lóng ngóng không biết xưng hô cho phải đạo? Kêu bằng anh thì sợ nó chê mình vô phép! Nó kêu bằng Tía mà mình kêu bằng anh; hổng lẽ mình cũng là Tía nó hay sao?
“Anh em mình cùng tuổi Mùi, con dê, thì anh em tuốt luốt đi hơi sức nào để ý tới thằng rễ đu đủ nầy càm ràm nầy nọ mất vui!”
Sau ổng tự giới thiệu: “Út là thứ. Tên là Đọt, cái chồi non. Vợ thằng nầy, con gái tui tên là Choại. Hơi khó kêu hả? Nhưng tên Tía con tui có cái tích hết.
Tui là dân Miệt Thứ giáp với rừng U Minh thượng đây anh. Hồi xưa cách đây hơn 150 năm, ông sơ của tui là nghĩa quân theo ông Nguyễn Trung Trực đánh Tây.
Sau ông Nguyễn bị Tây bắt xử trảm tại chợ Rạch Giá thì nghĩa quân tan vỡ. Để trốn sự truy nã của thực dân, ông sơ tui dông tuốt vào U Minh lập nghiệp giờ đã tới 4 đời.
Nghe bà con bên nầy gọi Úc là Miệt Dưới (Down Under) nghe hay quá. Tui e rằng chữ nầy do người tỵ nạn quê mình từ Miệt Thứ đem qua đó thôi.
Miệt là xứ, miền, một dãy đất. Như Miệt Trên (Bà Rịa, Vũng Tàu). Miệt Dưới: Rạch Giá, Cà Mau) nếu lấy cái đất Sài Gòn làm điểm đứng.
Rồi Miệt Vườn là vùng cao ráo, có vườn cam, quýt trên đất phù sa mầu mỡ ở ven sông Tiền, sông Hậu như Sa Đéc, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Cần Thơ.
Quê tui Miệt Thứ dài trên 30km kể từ sông Cái Lớn tới An Minh, rộng chừng 15km tính từ bờ biển vào đất liền, giáp với rừng U Minh Thượng (Kiên Giang), cặp sông Cái Lớn, đổ ra vịnh Rạch Giá.
Từ Cần Thơ muốn về Miệt Thứ qua Vị Thanh, Chương Thiện, theo quốc lộ 61 tới ngã ba Minh Lương, rẽ trái vô quốc lộ 63 để qua phà Tắc Cậu.
Hai là theo quốc lộ 91 qua Thốt Nốt đi Rạch Sỏi (Kiên Giang) tới ngã ba Minh Lương rẽ phải vô quốc lộ 63 qua phà Tắc Cậu. (Con rạch Cái Thia chảy dìa Tắc Cậu, con sáo qua sông con sáo đậu hiên nhà).
Nghe anh Út Đọt cắt nghĩa rành rọt như vậy tui đoán mò nhưng trật lất: “Chắc hồi xưa anh Út là giáo sư Sử Địa hả?”
Nghe tui nịnh khéo như vậy, ảnh hểnh mũi, lắc đầu: “Tui dốt mà anh! Đâu có học hành chữ nghĩa gì. Hồi nhỏ muốn đi học phải lặn lội qua tận Rạch Giá rồi về Cần Thơ ở trọ, cả năm mới về quê một lần, mà phải chèo ghe cả ngày mới tới. Nghe phát ớn. Mười người dốt hết chín, ban đêm phải đốt đèn dầu mù u mà học. Người biết chữ dạy người chưa biết chớ đâu có thầy cô dạy dỗ như bây giờ!”
Tui không học nhưng Má tui thì có. Vì quê Ngoại của tui Miệt Vườn bên Cần Thơ mà.
Ông Ngoại tui mê đá gà, thua sạch bách, phải cầm cố rồi bán cả đất điền trả nợ cờ bạc. Xấu hổ với bà con lối xóm ông Ngoại tui bỏ xứ, dắt cả gia đình vô U Minh nầy làm lại cuộc đời.
Tui đẹp trai như anh vậy là nhờ Má tui hồi xưa đẹp gái lắm. Mới16 tuổi mà đã có người đeo đuổi. Lúc Má tui theo ông bà Ngoại về U Minh nầy thì làm tan vỡ biết bao trái tim của mấy chàng trai xứ Miệt Vườn. “Sương khuya ướt đẫm giàn bầu. Bậu về Miệt Thứ bỏ sầu cho qua!”
Miệt Thứ thời ấy xa xôi cách trở quá, cho nên con gái Miệt Vườn theo chồng về Miệt Thứ: “Đêm đêm ra đứng hàng ba. Trông về quê mẹ lệ sa buồn buồn”.
Thiên tình sử đẫm lệ ướt vạt áo bâu như vậy; mà nghe má tui kể Tía tui chỉ cười khè khè nói: “Ối chim trời cá nước, ai bắt được nấy ăn mà! Tui bắt được má nó rồi đâu có hưởn đâu mà ghen với mấy thằng không bắt được chớ!
Má nó kể là muốn thử lòng tui coi có ghen hay không, vì ghen mới thiệt là yêu. Cái đó tui hổng có rảnh rồi hè. Con đàn cháu đống lủ khủ như vậy thì yêu quá xá quà xa rồi cần gì phải chứng minh chi nữa chớ! He he!”
Tui đồng ý với Tía tui đó anh. Lời yêu chỉ chót lưỡi đầu môi thôi. Không quan trọng; hành động mới đáng kể. Với lại Miệt Thứ mà trời sụp tối là muỗi vo ve như trấu; hai vợ chồng phải chui vào mùng mà đàm đạo. Kết quả là: Đứa thôi nôi đứa lôi đầy tháng là chứng minh hùng hồn nhứt cho tình yêu của đôi ta.
Tui cũng tin là con người có cái số. Tình nghĩa phu thê cũng vậy thôi như con gái tui nè dân Miệt Thứ mà lấy chồng Miệt Dưới là do cái mục tìm bạn bốn phương của thằng rể tui đăng trên báo: “Muốn tìm vợ chân quê, là rau sạch không có phun thuốc trừ sâu!” Con gái tui, con “Choại’ đáp ứng được cái tiêu chí nầy trăm phần trăm.
Mới đầu nó chê thằng chồng nó hơi già háp, chỉ nhỏ hơn Tía nó một tuổi. Tui giảng cho nó nghe: “Già thời già tóc già râu. Già hết ráo riêng cái cần câu không già… là được!”
Phần con hổng nghe Ngọc Trinh, người đẹp Vĩnh Bình, chỉ yêu ông nào đáng tuổi ông Ngoại mình không đó sao? Ông Ngoại nhưng đừng xài tiền nội, mà xài tiền ngoại như đô la Mỹ hay đô la Úc là được hè.
***
Nhưng anh có biết tại sao con gái tui tên Choại, đọc hơi tréo bảng họng hay không? Tréo bảng họng thiệt như có ý nghĩa lắm đó. Choại mang cả một trời quê hương đó nhe anh!
Sau mùa khô hạn, những cơn mưa đầu mùa bắt đầu rớt hột, mặt đất xâm xấp nước, cây cỏ mát mình là loại dây Choại rừng này bò vượt lên cao, bám vào thân cây tạo thành rừng bụi trong vùng ngập mặn U Minh.
Dây choại dùng để làm lạt, buộc lại cái kèo, đòn tay trong căn nhà tre, bện lộp, đăng, đó để bắt cá tôm. Còn đọt choại non, quắn tít nên còn gọi là rau tóc quăn, hơi chát, nhưng hậu ngọt. Ngắt đọt choại như hái rau, ăn sống chấm nước mắm giấm tỏi ớt, hoặc luộc chấm nước tương, chao, nước cá kho, nước thịt kho hay mắm nêm. Đọt choại xào xào thịt bò, thịt heo hay tôm tép, hoặc ăn kèm với cá thác lác, cá rô chiên, hoặc cá lóc nướng trui.
Tóm lại cây choại không bỏ gì hết ráo, xài hết từ đầu tới đít, cũng như con gái vùng Miệt Thứ quê tui nói chung và con Choại, con gái của tui nói riêng.
Dứt câu, anh Út Đọt quay qua hỏi thằng rể, rằng: “Con đã thử đọt choại bấy lâu rồi có phải Tía nói đúng hay không?”
Xong, anh quay qua mời tui: “Nghe nói anh khoái rau sạch lắm mà. Về quê tui ăn rau choại mệt nghỉ!”
Tui hứa: “Ờ hết VC, tui về Miệt Thứ quê anh để ăn đọt choại; mà “đọt choại” có hai cái nháy nháy lại càng khoái. He he!”
Xem thêm : Năm 1789 Có Sự Kiện Gì
đoàn xuân thu.
melbourne
Tình Mộng
Năm 1948 Kim Dung tốt nghiệp Cử nhân Luật quốc tế tại Đại học Tô Châu, Thượng Hải. Làm phóng viên chuyên dịch tin, rồi viết chính luận cho báo. Một hôm có tác giả truyện kiếm hiệp đăng nhiều kỳ trên báo vì bất đồng về nhuận bút nên bỏ ngang. Chủ bút nhờ Kim Dung nhảy vô điền khuyết. Không ngờ nhờ vậy mà nổi tiếng.
Danh vọng và giàu có của nhà văn Kim Dung chỉ là bề phải của tấm huy chương, còn bề trái cũng nhiều cay đắng. Nhứt là con đường tình ta đi của Kim Dung cũng gập ghềnh gãy khúc. Ông có tới ba đời vợ. (Mà thằng bạn nhậu của tui, cũng vốn có công phu thượng thừa nhờ luyện chưởng, cười khè khè phán rằng: đại hiệp Kim Dung ‘xài’ vợ hơi bị hao.)
Người vợ đầu, Ðỗ Dã Phân, một tiểu thơ khuê các. Cưới nhau năm 1948, Kim Dung chỉ chuyên tâm vào sự nghiệp viết lách, xao nhãng vợ trẻ. Hậu quả là ly hôn. Người vợ thứ hai, Chu Mai đã cùng Kim Dung đồng cam cộng khổ gầy dựng nên tờ Minh Báo, có ngày in tới 200 ngàn số. Họ có hai trai hai gái. Nhưng lần nầy do Kim Dung có thói trăng hoa, hậu quả là ly hôn. Chu Mai vẫn ở một mình và cuối đời ra đi trong cô độc. Kim Dung nói, “Tôi có lỗi với bà ấy! Tôi là một người chồng thất bại. Bà ấy qua đời, tôi rất đau lòng.” Người vợ thứ ba là Lâm Lạc Di, sanh năm 1953, năm ấy mới 16 tuổi nhỏ hơn Kim Dung 29 tuổi, là người rất hâm mộ tiểu thuyết võ hiệp của ông nên theo đại hiệp tới cuối đời.
***
Có lần trả lời phỏng vấn của báo chí tại sao lại chọn nghiệp viết văn, thì Sơn Nam cười hè hè nói: “Tôi không đẹp trai như Chánh Tín để đi đóng phim, hay khỏe như Huỳnh Ðức để đi đá banh, nên đành đi viết văn vậy!”
Giống như nhà văn Sơn Nam, Kim Dung có một ‘nhan sắc’ của một người đàn ông không được đẹp trai nhưng hay khoái gái đẹp, minh tinh điện ảnh, trở lên không hè. Lúc say mê nữ diễn viên Hạ Mộng, Kim Dung cũng chưa có tiếng tăm gì nhiều, tất nhiên là nghèo. Nghèo thì ‘xơ’ còn không có huống hồ chi tới ‘múi’. Nghĩa là không ‘xơ múi’ được gì hết ráo. Hạ Mộng sanh ngày 16, Tháng Hai, năm 1933, nhỏ hơn Kim Dung gần 10 tuổi.”Tây Thi đẹp như thế nào, chẳng ai từng trông thấy,” Kim Dung nói. “Tôi nghĩ Tây Thi phải giống Hạ Mộng thì mới gọi là danh bất hư truyền.”
Kim Dung bỏ việc ở một tòa soạn báo để chuyển sang biên kịch, rồi làm đạo diễn, mời Hạ Mộng vào vai chánh phim mình làm để hy vọng còn vớt vát được chút gì chăng với người trong mộng. Nhưng tất cả những cố gắng đó chỉ là dã tràng xe cát biển đông-nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì.
Hạ Mộng năm 22 tuổi đang trên đỉnh cao màn bạc, có chồng giàu, một đại gia. Năm 1967, Hạ Mộng bỏ luôn nghề diễn xuất đang lên, theo chồng sang Canada định cư. Ngày đi ta đưa em qua con đò nầy, em chẳng bao giờ hứa đợi chờ nhau nên nhà văn vĩnh biệt tình mộng bằng một bài xã luận nhưng lại đầy chất thơ, mang tên ‘Giấc mộng Xuân của Hạ Mộng’ đi liền hai ngày trên trang nhứt tờ Minh Báo (Kim Dung làm chủ biên).
Bảo Huân
***
Trong làng văn nghệ của nước ta cũng biết bao nhà văn, nhà thơ, nhà nhạc muốn người ta mà người ta không muốn; đành vác ‘cù nèo’ đi xuống đi lên. Như Y Vân (nghe vợ ông nói viết giùm cho Nguyễn Long; chớ ông xã nhà tui không có à nhe) vào thập niên 60 thế kỷ trước. “Thúy đã đi rồi. Những ngày băng giá không tiếng cười. Thúy đã đi rồi. Biết làm sao cho nhớ thương nguôi. Ðời em về đâu? Cho gió trăng sầu. Tìm em ở đâu? Ðường mây tìm dấu… Thúy quá vô tình. Ví dù em có hay dỗi hờn. Cũng vẫn hơn là bến tình anh lê gót cô đơn…”.
Hay Bùi Giáng, tình mộng với Kim Cương suốt 40 năm tới chết. Có người nói Bùi Giáng là nhà thơ điên. Ðiên mà biết làm thơ dê gái, mà lại là gái đẹp nữa thì khó thể tin được là Bùi Giáng bị điên thiệt (?!)
Nghe các giai thoại đổ mồ hôi hột nầy tui phải gục gặc cái đầu, ngả nón mà thán phục! Dẫu không có học gồng; chỉ là dân chơi sợ gì mưa rơi, mấy nhà văn nghệ ‘Mít’ nầy uống thuốc liều, si mê em rồi là bất cần thân thể, hổng ngán tay nào đang làm chồng em yêu hết ráo. Dám đem lời tỏ tình ‘trần trắng trợn’ của mình lên đăng chình ình trang báo mà không sợ chồng em ghen quánh cho mà sặc máu!
Kim Dung, (tui e) nhát gan hơn, hổng dám chịu chơi, chơi tới cùng mà chỉ dám bóng gió xa xôi, vẽ nên hình ảnh của người trong mộng qua những nhân vật trong tiểu thuyết của mình. Dẫu bị chê là nhát gan, nhưng lại hay vì hai lẽ. Một là con vợ nhà dẫu là sư tử Hà Ðông, ghen hết biết, cũng hổng biết nhân vật nữ trong truyện là đứa nào ngoài đời để bà đến xé quần, xé áo; cho em một trận tơi bời hoa với lá.
(Yêu người mà làm liên lụy tới người thì mang tiếng nhà văn, vốn đầy trí tuệ, mà chi cho chúng nó khi!) Hai là mấy em ‘đèm đẹp’ đọc xong rồi đi khoe cùng làng khắp xóm là ‘thằng chả’, tay tác giả, lừng danh nức tiếng nầy, nhểu nước miếng là vì tui đó nhe.
Có độc giả cho rằng những người đẹp như Hoàng Dung trong “Anh Hùng Xạ Ðiêu”, Tiểu Long Nữ trong “Thần Ðiêu Ðại Hiệp” hay Vương Ngọc Yến trong “Thiên Long Bát Bộ” đều phảng phất hình ảnh của Hạ Mộng. Nhưng tui lại cho rằng Nhạc Linh San trong “Tiếu Ngạo Giang Hồ” mới chính là Hạ Mộng, vì “Tiếu Ngạo Giang Hồ” ra đời vào năm 1967 đến năm1969. Khoảng thời gian này Hạ Mộng bỏ Hong Kong giũ áo ra đi… làm trái tim nhà văn rướm máu.
Ðây là một mối tình tay ba, tình tam giác, giữa Lệnh Hồ Xung, Lâm Bình Chi và người đẹp Nhạc Linh San. ‘San’ mới đầu yêu ‘Xung’ nhưng thấy ‘Chi’ đẹp trai, con nhà giàu, đại gia (giống như chồng ngoài đời của Hạ Mộng) nên đá đít ‘Xung” mà quay qua yêu ‘Chi’. Tim và lòng tan nát, Kim Dung bèn trả thù bằng cách cho tình địch Lâm Bình Chi dẫn đao tự cung thành ‘Thái Giếng’ để luyện Tịch Tà Kiếm Phổ, mong làm bá chủ võ lâm. Lệnh Hồ Xung thất tình “Hoa Sơn, tùng vẫn bạc đầu. Lệnh Hồ còn đọc kinh cầu ngày xưa. Nhạc Linh San vẫn ơ thờ. Khúc ca Phúc Kiến ngây thơ giết người. Lệnh Hồ hỡi! Lệnh Hồ ơi! Kinh cầu còn đọc bao giờ mới thôi!”
Tội nghiệp Chú Ba Lệnh Hồ Xung (hình ảnh của Kim Dung), muốn người ta người ta không muốn; mòn chục đôi giày đi xuống đi lên để tìm cách làm ‘bạn đời’ tri âm, tri kỷ với Nhạc Linh San mà em hổng có chịu!
Kim Dung hưởng đại thọ tới 94 tuổi. Mấy năm cuối đời bệnh hoạn rề rề. Văn hữu ghé thăm, đoán chừng nhà văn sẽ sống thêm vài tuần lễ nữa. Ai dè ngày 30 tháng Mười năm 2018 Kim Dung giũ áo ra đi với nụ cười còn nở trên môi. Tui đoán mò (nhưng dám trúng lắm đa) Kim Dung chọn chết vào ngày này vì cách đây hai năm, cũng chính ngày nầy tháng đó, người tình trong mộng của ông là diễn viên Hạ Mộng cũng ra đi.
Năm 2014 đã già hết ráo rồi nhưng Hạ Mộng vẫn khăng khăng mình chỉ là người Kim Dung mộng thế thôi. “Chuyện Kim Dung và tôi chi bằng đừng nhắc lại.”
Ðại hiệp Kim Dung đành “Ðến đại náo chốn giang hồ một lần rồi lẳng lặng ra đi!” Sống đã lỡ không đồng tịch, đồng sàng; chết thì lỡ không đồng quan, đồng quách – như Lương Sơn Bá với Chúc Anh Ðài. Thôi không trúng được độc đắc thì trúng lô an ủi cũng được, bằng cách chờ tới cùng ngày, cùng tháng, dẫu khác tới 2 năm. Ðại hiệp Kim Dung mỉm cười mãn nguyện vĩnh quyết cõi giang hồ gió tanh mưa máu để: “Cho dù người có biến thành tro bụi ta cũng sẽ nhận ra.”
“Rượt theo em tới cùng hè!” Thiệt là tình mộng.
Xem thêm : Năm 1789 Có Sự Kiện Gì
đoàn xuân thu.
melbourne
_________________________________________________________________________
Thoi thóp miền Châu thổ!
Sông Cửu Long, còn có tên là sông Lớn, sông Cái, bắt nguồn từ Tây Tạng, chảy qua Trung Quốc, Lào, Myanma, Thái Lan, Campuchia chuyên chở rất nhiều phù sa bồi đắp vùng châu thổ rồi đổ ra Biển Đông bằng chín cửa. Chính vì thế dòng sông mới có tên là Cửu Long, là chín con rồng,
Bắt đầu từ Phnom Penh, sông Cửu Long chia thành hai nhánh: Tiền Giang, Hậu Giang là do lưu dân từ vùng ngũ Quãng vào đất mới, vào miền Tây (khoảng nửa cuối thế kỷ 17), gặp con sông lớn đầu tiên gọi là Tiền Giang, sau đó gặp con sông lớn thứ hai gọi là Hậu Giang.
Trên sông Tiền có 6 cửaː Tiểu, Đại, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên và Cung Hầu, trên sông Hậu có 3 cửaː Định An, Ba Thắc và Tranh Đề.
Cửa Ba Thắc, khoảng thập niên 1960, đã bị nhiều cồn cát ở cừa sông bồi lấp, chỉ còn là con rạch nhỏ mang tên sông Cồn Tròn có cửa nằm sâu bên trong cửa Tranh Đề, nên sông Hậu ngày nay chỉ còn hai cửa biển.
Cái cửa thứ hai mới biến mất là cửa Ba Lai do bị hệ thống cống đập Ba Lai ngăn lại để ngọt hóa vùng ven biển của tỉnh Bến Tre.
Vậy là Cửu Long chỉ cón là Thất Long, 7 cửa sông chính thông thuyền ra biển Đông.
Bây giờ vùng châu thổ đồng bằng sông Cửa Long có khoảng 17 triệu người dân thân yêu của mình đang sinh sống. Vậy mà gần 2 triệu người dân phải đau lòng, nước mắt lưng tròng, đứt ruột tha hương, rời bỏ “vùng mật ngọt” với gạo trắng nước trong, dòng sông, ruộng đồng đầy tôm cá để tha phương cầu thực.
Đàn ông thì đi làm thuê, làm mướn cho hãng xưởng Đài Loan, Nam Hàn ở tận Bình Dương. Phụ nữ trung niên phải đi Đài Loan qua tới cả Arab Saudi làm ‘osin’ tức ở đợ.
Còn phụ nữ trẻ có nhan sắc một chút thì phải để cho mấy Chú Chệt Đài Loan, Củ Sâm nắn bóp lựa chọn như lựa một con thú cưng về làm vợ.
Thân phận người phụ nữ Việt nam bị bức hiếp, bạo hành; tiếng kêu cứu, khóc than cứ biến vào cõi hư vô.
Ai đang bức tử dòng sông Cửu Long đã nuôi sống đồng bằng thân yêu của chúng ta bao đời nay?
Thủ ác là Tàu Cộng và Việt Cộng, Lào Cộng và Miên Cộng. Tội ác hủy hoai môi trường sinh thái vùng hạ lưu sông Cửu Long trước hết là do Trung Cộng ngang nhiên xây con đập khổng lồ ở Vân Nam. Rồi nước Lào xây liên tiếp 9 con đập thủy điện để bán điện cho Thái Lan và Cambodia cũng xây hai đập.
Hậu quả nhản tiền thấy liền trước mắt là đập thủy điện thay đổi dòng sông, dòng nước làm bà con mình ở miền Tây lãnh đủ. Mất nguồn cát phù sa mầu mở, bờ sông sạt lở, nhà dân đổ chìm xuống sông. Bờ biển thì cũng sạt lở, nước mặn tràn vào.
Cái lẽ phải ở đây là dòng sông chảy qua nhiều nước. Không phải sông chảy qua nước Tàu rồi Tàu muốn làm gì thì làm.
(Bài học lịch sử ngày xưa về nguồn nước đã cho biết Ông Thái Hữu Kiểm dựng chợ Trong bên cạnh rạch Ba Tri, giúp cho dân cư ở khu này có nơi làm ăn sinh sống. Khi đó có ông Xã Hạc ở chợ Ngoài chơi ép, đắp đập chặn không cho ghe thuyền từ sông Hàm Luông vào chợ Trong. Ông Kiểm bất bình, kiện lên Huyện, Huyện xử chợ Trong thua với lập luận: “Mỗi làng đều có quyền đắp đập trong địa phận làng mình”.
Ông già Ba Tri Thái Hữu Kiểm không chịu cái phán quyết bá láp nầy khăn gói đi bộ 1000 cây từ Ba Tri ra Huế để đưa đơn lên nhờ vua Minh Mạng phúc thẩm lại phán quyết bất công kia.
Vua thụ lý rồi xử cho dẹp bỏ đập, vì rạch là rạch chung, đường giao thông chung của cả chợ Ngoài lẫn chợ Trong.
Vậy thì các nước trên thượng lưu sông Cửu Long, đầu têu là Trung Cộng ỷ mình là nước lớn làm càn như vậy đâu có được, các nhà học giả về môi trường của nước mình phải ra Đại hội đồng Liên Hiệp quốc thưa nó mới được.
Ăn thua thì chưa biết chắc nhưng ít nhứt để các nước khác thấy được cái dã tâm của Trung Cộng mà dè chừng.
***
Cái gây hại cho vùng châu thổ sông Cửu Long do nước ngoài đã là kinh khủng; nhưng hậu quả kinh khiếp hơn lại chính là do chính những quan chức CS trong nước.
Vịn vào công trình nghiên cứu khoa học (tào lao) ngọt hóa Bán đảo Cà Mau, bọn chúng đi mượn tiền nước ngoài về xây dựng cái hệ thống thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé.
Nghe thấy vậy, nên mấy hôm nay các nhà bảo vệ môi trường người Việt trong cũng như ngoài nước khẩn thiết lên tiếng báo động công luận, khuyên can bọn chúng ngừng lại nhưng hình như là đàn khảy tai trâu, nước đổ đầu vịt!
***
Hồi CS Bắc Việt chiếm được miền Nam, CS Bắc Việt đã mang nguyên xi chương trình đắp đê ngăn lũ của sông Hồng ngoài Bắc vào áp dụng ở miền Nam
Vùng trủng tứ giác Long Xuyên, cứ đắp đê, cứ chận nước lại để làm lúa ba mùa. Được cái nầy là mất cái kia. Lúa thì có nhiều thiệt nhưng đất thì ngày một cạn kiệt không còn mầu mở, vì làm gì có phù sa theo nước lụt mà bồi đắp như xưa giờ.
Phải xài phân hóa học, thuốc trừ sâu…Tiền vốn nhiều, bán lúa giá chẳng bao nhiêu nên dân làm ruộng từ nghèo thành mạt.
Rồi cả đống công trình được vẻ lên nào là: Công trình Quản Lộ-Phụng Hiệp, Cống đập Ba Lai. Bà con dân Bến Tre có câu thơ như một tiếng chửi thề: “Ba Lai là cái cửa mình. Trung ương đem lấp dân tình ngẩn ngơ!”
Cái đập nầy chắn ngang cửa sông Ba Lai từ xã Thạnh Trị (Bình Đại) tới xã Tân Xuân (Ba Tri).
CS đánh trống thổi kèn là để ngăn mặn, giữ ngọt cho 115,000 hecta đất, cấp nước ngọt sinh hoạt cho hơn 600 ngàn dân Bến Tre và Ba Tri, Giồng Trôm, Bình Đại, Châu Thành. Rồi phát triển giao thông thủy bộ và cải tạo môi trường sinh thái vân vân và vân vân…
Hậu quả nhản tiền là: Sông Ba Lai ngừng chảy, vì biến sông Ba Lai thành hồ.
Nói ngăn mặn từ biển tràn vô giờ dân Bến Tre phải sống với nước sông Ba Lai mặn hơn trước kia nhất là vào mùa khô, thiếu nước ngọt kinh niên, phải tới 100,000 đồng/mét khối mới có mà xài.
Không có tiền mua nước ngọt là phải bơm từ những giếng ngầm, nguồn nước ngầm này cũng ngày một hạ thấp và có nơi cư dân đã phải khoan đến độ sâu 80-120 mét làm đất sụt lún thấp nước mặn tràn vào nhiều hơn trước.
Ngăn dòng nước thì sông ô nhiểm do rác rưởi, độc chất thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và phân bón hóa học tràn xuống tích tụ dày đặc, nước trong các sông rạch đổi sang màu đen, bốc mùi hôi thối.
Các loài cá trắng của nước chảy, giờ trong nước tù đọng có nguy cơ chết ráo. Chỉ còn lại các loài cá đen nước tù của ao hồ như cá lóc, cá trê, cá rô phi. hủy diệt sinh cảnh và nguồn thủy sản nơi cửa sông và vùng ven biển.
Các loại cây quen sống ở vùng nước lợ như cây dừa nước, hư hại và chết do vùng nước lợ bị ngọt hóa.
Phía trong cống, thì chẳng còn nước lớn, nước ròng mỗi ngày, hoặc nước rong nước kém mỗi nửa tháng. Lục bình phát triển tràn lan kín cả mặt sông rạch ghe xuống hết đi luôn. Dân phải phun thuốc diệt cỏ trên lớp lục bình để còn thủy lộ mà đi lại khiến nước sông càng ô nhiễm thêm nữa.
Mấy nhà khoa học nông nghiệp Việt Nam đã từng kêu gào là: trồng nhiều loại cây khác nhau chớ không hẳn là cây lúa. Nuôi nhiều loại con khác nhau chớ không hẳn là bắt com tôm ôm cây lúa rồi cả hai cùng chết. Vì con tôm cần độ mặn trên 4 phần ngàn, còn cây lúa dưới 4 phần ngàn. Nước thải ruộng tôm làm chết lúa và nước thải ruộng lúa có nhiều thuốc sâu cũng làm chết tôm.
Thế nên đừng đắp đập để ngăn mặn, lợ; vì nước mặn, lợ cũng có lợi cho dân miền ven biển. Đừng thế thiên hành đạo làm chuyện nghịch kỳ thiên nữa mấy cha nội!
Xưa giờ người dân miền châu thổ, miền văn hóa sông nước, chưa có nha khí tượng, mà đã biết dự báo thời tiết, nắng mưa khá chính xác và hiệu quả.
Chưa có nha Địa chất, nhưng đã biết chọn đúng loại cây trồng, không chỉ có cây lúa họ biết đa canh để giữ màu cho đất. Cứ một vụ lúa rồi cuốc khoai để đất sốp cho vụ mùa sau.
Hối xưa vùng châu thổ năm nào cũng lụt. Đâu có nghe ai than khóc gì đâu; vì lụt rửa phèn cho đất, nước dân lên tiêu diệt mầm mống sâu gây bệnh rồi bồi đắp phù sa, một loại phân bón của thiên nhiên ăn đứt phân hóa học vốn làm chai đất.
Không trồng được lúa mùa nước nổi được thì thủy sản: cá tôm dư sức bù qua. Mà còn bù rất sộp nữa!
Nhưng tại sao Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn của CS bộ dốt nát hay sao mà không biết cái thực tế rành rành ra đó.
Họ biết chớ ban bệ tùm lum đầy đủ học vị cũng cùng mình tứ đầu tới đích.
Biết nhưng vẫn vẻ ra cái đề án phải xây dựng hệ thống thủy lợi quy mô lớn, xây dựng cống đập ngăn mặn, đào kênh dẫn nước ngọt quí hiếm từ Sông Hậu xa tít để tiếp tục bắt dân trồng lúa, như Dự án SôngCái Lớn – Cái Bé.
Được duyệt dự án thì họ mới có ăn, rồi đem chính mạng sống và kế sinh nhai người dân ra đánh bạc.
Chữ rằng: Nhứt phá sơn lâm nhì đâm Hà Bá là phá rừng và hủy hoại dòng sông, tiêu diệt môi trường sống của dân là hai tội ác trời không dung đất cũng không tha.
Bên mấy nước phương Tây dân chủ nầy đây, đâu có đứa nào dám gan cùng mình làm ẩu như vậy? Cái đảng ‘Xanh’ chuyên bảo vệ môi trường nó sẽ đem mấy cha ra mà mần thịt.
Ngẫm lại cuối cùng cái tàn hại của rừng, của sông, của biển quê mình là cũng do thể chế chánh phủ độc tài CS mà thôi.
Nó làm cái nầy, dân cự nự kêu ngưng thì nó vẻ ra cái khác. Cái vòng lẩn quẩn nó không ngừng. Bỡi cái bản chất của chế độ XHCN là thối nát, tham nhũng, độc tài…Mà bản chất thì làm gì sửa cho được chớ.
Nên Boris Yeltsin gần cả đời theo CS bên nước Nga nói “Cộng sản không thể nào sửa chữa, chúng phải bị đào thải” (Communists are incurable, they must be eradicated…).
Dân mình không chấm dứt nó. Thì nó sẽ chấm dứt dân mình!
đoàn xuân thu
Melbourne
_______________________________________________________________________________________________________________________
Bạn thời thơ ấu!
Hồi xưa bên Tàu, và cả bên Việt Nam mình, nghề thuốc là một cái nghề cao quý, chỉ để cứu nhân độ thế. Bào chế cao đơn hoàn tán chẳng qua là phục vụ cho dân; nếu có tính tiền thì cũng chẳng là bao; chỉ đủ rau cháo qua ngày mà thôi. Như nhà thơ Nguyễn Ðình Chiểu của đất Ba Tri, Bến Tre vừa làm thơ, vừa bốc thuốc để chữa bịnh cho dân nghèo. Thực dân Pháp tính mưu chuộc, cấp tiền nhưng ông khẳng khái khước từ.
Còn bây giờ trong chế độ CS là khác nhe. Làm nghề thuốc là để kiếm tiền, càng nhiều càng tốt ngay cả bất lương cũng được tuốt. Mới đây nè! Bên Trung Cộng, công ty Trường Xuân dám sản xuất ra 250 ngàn liều chích ngừa dỏm, bán cho con nít để bỏ túi tới 90 triệu đô Mỹ.
Cái ‘y đức’ thời CS nó đi ‘đứt’ như vậy; nên phim Tàu ngày nay mới dám định nghĩa cái nghề thầy thuốc bên Tàu hồi xưa như vầy: Sau khi thua xiểng niểng trận Xích Bích dưới tay của quân Tôn Quyền và Lưu Bị, Tào Tháo phán rằng, “Làm tướng như làm thầy thuốc. Có thất bại mới tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm nhờ đó cuối cùng mới đưa đến thành công. Tỷ như làm thầy thuốc, thất bại nhiều lần, chữa cho người nào người nấy lăn ra chết mới tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm để trở thành thầy thuốc của nhân dân sau nầy!”
Tào Tháo phán thiệt là bá láp. Ðem hai cái nghề khác nhau mà so sánh khập khiễng như vậy đâu có được nè. Làm tướng là dắt lính đi đánh nhau, là giết người hoặc bị người giết; nên mới có câu: “Nhứt tướng công thành vạn cốt khô!”
Còn làm thầy thuốc là cứu người. Cứu không được là do bịnh nhân tới số rồi, vì thầy thuốc dẫu giỏi thế mấy, vẫn không phải là ông Trời. Tận nhân lực còn tri thiên mạng nữa chớ.
Nên có chuyện rằng vợ Diêm Vương bị ấm đầu, sổ mũi. Thương vợ, Diêm Vương cho đòi quỷ sứ vào truyền lịnh:”Hãy lên trần thế, rước về cho ta một thầy lang thiệt giỏi để chữa bịnh cho phu nhân của ta.” Quỷ sứ cầm đinh ba bước ra, sực nhớ điều gì đó bèn quay lại: “Tâu bệ hạ thầy lang trên trần thế nhiều vô số kể; chúng thần biết rước ai đây?”
“Thì các ngươi bỏ tiền ra mua tờ báo, xem mục quảng cáo, thầy lang nào chữa bá bệnh, từ tiểu đường, ung thư, cao máu đều lành bịnh hết ráo thì rước xuống đây cho ta!”
“Tâu bệ hạ! Tin vào quảng cáo không được đâu, vì đa số thầy lang đó là lang băm chuyên nói láo!”
Sau một hồi chống tay lên cằm suy nghĩ, Diêm Vương phán rằng: “Ðến phòng mạch nào mà có ít oan hồn uổng tử khóc lóc đòi đền mạng thì rước thầy lang đó xuống đây ngay cho ta!”
Bọn quỷ sứ đằng vân giá vũ bay lên trần thế rước ngay được một thầy lang đem vào triều bệ kiến. “Nè thầy lang kia! Quỷ sứ báo cho ta biết là trước phòng mạch của nhà ngươi chỉ có một oan hồn uổng tử khóc lóc đòi đền mạng; con số một nầy chứng tỏ tay nghề của thầy lang thiệt là cao diệu. Vậy chẳng hay xưa giờ thầy lang đã chữa hết có tất cả bao nhiêu bệnh nhân?”
“Số bệnh nhân xưa giờ của thần chỉ có một người. Ông ta chỉ 62 tuổi thôi nhưng vì bị ‘virus lạ’ tấn công nên thần không biết ‘con virus’ lạ đó là con gì? Ðành phải bó tay thôi! Chỉ hy vọng rằng Hoàng hậu không bị nhiễm con ‘virus lạ’; chắc thần sẽ chữa hết. Cam đoan không hết không tính tiền!”
***
Ðời mà! Mỗi người một phần số khác nhau, chuyện nghề nghiệp là do ông Trời ổng phân công đó thôi. Mình có muốn cũng không được. Như khoái viết nhăng, viết cuội trên báo, coi đó là niềm vui. Nhưng ông Trời phán đó là nghề tay trái; còn nghề tay phải, phần số tui phải làm ‘cu li’ mới có cơm mà ăn có rượu mà nhậu, nên tui đành chịu.
Nhưng cũng nhờ viết báo mà một thằng bạn học cũ hồi Tiểu học Bàn Cờ, rồi Trung học Petrus Ký, giờ làm bác sĩ bên Úc nầy đây, mới tìm được ra tui sau cuộc biển dâu, trời sập năm 75 đó chớ.
Nói nào ngay hồi còn nhỏ đi học tui cũng ngưỡng mộ ngành Y, muốn mình được làm bác sĩ chích đít mấy em… mà còn được trả tiền. Phần trộm nghe mấy người đẹp cỡ “Thanh Nga, Thanh Lan, Thanh Thúy, Thanh Tuyền” kháo nhau rằng: “Phi cao đẳng bất thành phu phụ”. Phải cỡ bác sĩ trở lên mới rớ được cọng lông chưn của mấy em; chớ ‘phèn’ như tui, đỉa mà đòi đeo chân hạc, là mấy em sẽ nói: “Thanh Kiu”!
Do đó đắt mèo nhứt, gái đeo phủi không hết, là mấy thằng học Y khoa. Chưa ra trường là Bố Mẹ em đã đặt cọc cái ống chích của nó cho con gái họ xài tới mãn đời rồi hè!
Tui rất muốn vậy, nhưng lực bất tòng tâm không cách chi mà đua cho lại tụi nó.
Muốn làm bác sĩ là phải học Y Khoa. Mà muốn vào được trường Y thì thời Trung học phải giỏi Toán, Lý, Hóa, Vạn vật và Sinh ngữ. Nghĩa là môn nào nó cũng giỏi hết. Chính vì vậy mà hai kỳ Tú tài nó đều đậu Ưu hết ráo. Rồi phải đậu một kỳ thi tuyển 5000 đứa, vừa trai vừa gái, mà chỉ chọn được có 200. Một mình phải đá đít được 25 đứa khác! Rồi phải học tới 6 năm dài lê thê, dài đăng đẳng; rồi nội trú một, hai năm trong bịnh viện mới dám khoe: “Tui là đốc tờ!’
Rồi qua đây, nghe con cái của người Việt mình ra bác sĩ ào ào hè! Thấy nhiều như vậy đừng tưởng là dễ. Phải tốt nghiệp VCE (Tú tài) với hạng Ưu 99.95 điểm. Rồi phải đậu vào trường Y, học ròng rã 5 năm, thêm một, hai năm nội trú, thực tập ở các khoa, phòng khác nhau tại bịnh viện rồi gia nhập vào Hội đồng Y Khoa của tiểu bang mới được giấy phép hành nghề.
Còn có bằng Cử nhân, muốn làm bác sĩ cũng phải học ròng rã tới 4 năm. Bác sĩ chuyên khoa còn học lâu hơn. Học phờ râu luôn, nếu có râu!
Bảo Huân
***
Ðang hăng tiết vịt, sùi bọt mép gây lộn với em yêu thì cái ‘mobile phone’ Samsung 9 của tui nó rung lẩy bẩy, kêu ò í e. “Hello! Phải thằng ‘Ca’ không?” (‘Ca’ là cái bí danh của tui, do mấy thằng bạn quỷ sứ thời đi học nó đặt cho, đem ráp thêm vào cái tên, nói lái lại, nhằm chọc cho tui quê xệ chơi vậy mà!)
À cái thằng nầy biết cả cái tên tục của tui, cái bí mật đời tư, mà ngay cả em yêu cũng không biết thì chắc chắn nó là một trong cái đám quỷ sứ phá nhà chay thuở đó rồi. “Ờ “Ca’ đây! Ðại ca của mầy đây! Ðứa nào ở đầu dây vậy!”
“Tao! Ðốc tờ Thí-ô đây! Là bạn học thời thơ ấu của mầy!” (Hồi xưa, nó tên Tèo nhưng qua đây chuyển ngữ, thêm chữ ‘h’ vào, tiếng Việt mình đọc là Theo hay Thẹo, còn tiếng Úc đọc là Thí-ô).”Chiều nay thứ Sáu, cuối tuần, 6 giờ đóng cửa phòng mạch, mầy ra gặp tao.”
“Chi vậy? Tao đâu có bịnh hoạn gì mà cần đi gặp bác sĩ?”
“Tao chỉ muốn mầy ra Footscray nầy đi nhậu chơi với tao thôi!”
Hai đứa kéo nhau ra nhà hàng. Bác sĩ ‘Thí-ô’ chơi sộp, kêu chai rượu đỏ Penfolds Bin 95 Grange Shiraz, đời 2013, giá tới 700 đô. Giở menu, gọi vài món nhắm, toàn là sơn hào hải vị như: tôm hùm xào mì, bào ngư sốt dầu hào, bò Kobe Nhựt Bản nướng vỉ. (Hèn chi bà con mình hay nói nghề bác sĩ bên Úc nầy đây được chánh phủ cấp cho cái máy in tiền, tên là Medicare).
“Mầy làm bác sĩ giàu thiệt.””Giàu có gì? Chỉ đủ ăn thôi! Nhưng hôm nay để đãi bạn thời thơ ấu, tao chơi hơi sộp… để nhát mầy!”
Cầm cái ly rượu đỏ lên, tui hỏi: “Sao tay tao run quá hè?” Thì nó hỏi lại: “Bộ mầy uống nhiều lắm hả?””Có vô miệng được giọt nào đâu. Ðổ ra ngoài hết trơn rồi!”
Ðốc tờ ‘Thí-ô’ bèn rót rượu ra chén cho tui, rồi nói: “Hồi xưa Lưu Linh hay uống rượu bằng chén, gọi là chén thù chén tạc!”
“Như vậy tay tao run là bịnh gì?””Thì bịnh ghiền rượu chớ gì! Bịnh nầy không có chết ngay đâu. Ðừng lo. Nhưng trước sau rồi cũng chết, chết chắc! Nhưng mầy còn trẻ, mới 70, thì chết sớm làm gì? Ðể tao vẽ cho mầy một cái ‘plan’ cai rượu.”
“Ờ, mà nghe nói chữa bệnh ghiền rượu rồi hay chết vì bệnh sơ gan lắm mà?!”
“Với bác sĩ nào, tao không biết; nhưng tao chữa bệnh ghiền rượu nếu có chết là chết vì rượu chớ không có chết vì gan đâu mà mầy lo!”
đoàn xuân thu
melbourne
Tuổi hạc!
Chắc bà con nào già ‘sêm sêm’ như người viết, đang hưởng ‘bonus’ (phần thưởng của cuộc đời); nghĩa là đã trên 60, tuổi ăn đáo tuế, đều biết bản “Những chuyến xe trong cuộc đời” của nhạc sĩ Hoài Linh, do ca sĩ Giáng Thu trình bày vào những năm 1960.
Nghe tiếng hát Giáng Thu và tiếng nhạc hòa theo y như tiếng xe ngựa lăn trên mặt đường đầy sỏi đá ‘chắc chắc bùm bum’!
Nhạc sĩ Hoài Linh chia cuộc đời chỉ có 3 giai đoạn mà thôi, thay vì 4 là: sanh ra; lớn lên lấy vợ hoặc lấy chồng, (hoặc không, hay lấy rồi lại bỏ); rồi cúp bình thiếc, ngủm là xong.
Phần đầu, mới sanh ra, đi xe tài nhứt :”Chuyến xe đầu, đưa người từ lòng nôi vào tư thế chơi vơi. Tay không hành lý ngóng nhìn về tương lai. Ngỡ ngàng tiếng lên khóc cười, thay cho lời đầu tiên người nói …”
Còn nằm nôi, có quần thủng đít mặc là may quá xá rồi; nói chi đến hành lý va li đầy châu báu chớ. Khát sữa, đòi bú tí, khóc oe oe chớ có biết nói năng gì hè?
Phần hai là lớn lên, đi làm kiếm tiền (hay không bằng hên, dở không bằng giỏi) lên đại gia, thành trọc phú, gáy te te như dế… lửa.
“Tháng năm dài, vui buồn tuổi trầm vui, ngọt cay cũng mau quen. Xe lăn một chuyến cát bụi mòn chân đen. Sang giàu may mắn phút đầu. Hay nhịp độ gãy đôi ba cầu.”
Có tiền rồi phải có vợ cho nó xài ké với chớ. Xài một mình sao hết? Nên: “Xe hoa đưa người êm ấm tình nồng. Em anh nên đôi vợ chồng. Se tơ hồng một duyên hai bóng”
Nhưng giày dép còn có số; người ta cũng vậy thôi. Có đứa chỉ một xe đầu, chạy miết hè, một vợ thôi tới già. Nhưng có đứa ‘xài’ vợ hơi hao nên ‘sắm’ vợ mới hoài hè! Nên: “Duyên đưa, có người chỉ một xe đầu. Có người vài lần thương đau…” Nhưng có đứa nhứt định tử thủ tới giờ lên giàn hỏa. “Có người chẳng bao giờ đâu!”
Coi vậy thời gian như bóng câu qua cửa sổ. vèo một cái là già tới nơi rồi. Tui cũng vậy: “Ủa mình mới cưới vợ hôm qua quá đã mà sao nay nhìn lại là con đầy đàn, cháu một đống!”
Chuyện rằng: Một bé gái ngồi cạnh ông Nội mình trên một cái ghế salon trong phòng khách. Em thấy rõ những nếp nhăn hằn theo năm tháng trên khuôn mặt của ông Nội mình. Em lấy tay chà lên những nếp nhăn đó. Rồi sau đó chà lên chính khuôn mặt của mình. Có vẻ như bé gái hơi bối rối, hổng biết tại sao, nên hỏi: “Nội! Có phải ông Trời đã tạo ra Nội phải không?””Đúng vậy cháu cưng! Ông Trời đã tạo ra Nội một cũng rất lâu rồi!”
“Có phải ông Trời đã tạo ra chính con?” “Đúng vậy cháu cưng! Ông Trời đã tạo ra con cách đây không lâu!”
“À! Vậy là tay nghề của ông Trời tiến bộ vượt bực theo thời gian đó! Nội có đồng ý với nhận xét của con không?”
Rồi cuối bản nhạc là cuối đời mình: “Sáng trưa chiều, khi tuổi đời nặng reo. Vòng tay cũng xuôi theo. Công danh ngày ấy giấc mộng tình hôm nay. Cũng về như chiếc lá gầy. Xe đơn lạnh tiễn ai trong này?”
Vậy là “chắc chắc bùm bum” xong! Nên xin bà con đừng cày sâu cuốc bẩm làm gì nhiều, Sở Thuế nó ăn hết. Cày ‘vừa (dừa) đủ (đu đủ) xài (xoài)’ thôi; để thời gian chơi nữa chớ. Làm việc kiếm tiền để sống; chớ đâu phải sống chỉ có cái mục tiêu duy nhứt là kiếm tiền?
***
Trong bài Tống biệt, nhà thơ Tản Đà có viết: “Cái hạc bay lên vút tận trời! Trời đất từ đây xa cách mãi…Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi!” (Nhà thơ xứ Bắc gọi là cái hạc, còn trong Nam mình gọi là con hạc).
Bà con mình chắc ai cũng đã từng thấy con hạc trong tranh hay con hạc cao lêu khêu đứng trên lưng con rùa trong đình, chùa, miếu mạo. Mà ngay cả ở nhà, trên bộ lư đồng để thờ cúng gia tiên cũng có rùa và hạc,
Rùa sống dai, sống rất lâu, già lão. Nhưng dù già bao lâu chăng nữa cũng có ngày rùa biến thành cánh hạc bay lên vút tận trời nghĩa là phải ngỏm củ từ.
Vì thế cho nên tuổi già, mà chưa đi bán muối, râu dài tới rún, tóc bạc phơ, cầm cây phất trần (tức cây chổi lông gà) ve vẩy để đuổi ruồi cho có vẻ tiên phong đạo cốt là tuổi hạc.
Có sanh có diệt là chuyện đương nhiên, không ai cãi lại được kể cả ông Bành Tổ.
Đời mà sanh lão bệnh tử. (Nghe tới tử ai cũng sợ, kể cả tui, nên muốn được sống lâu. Nhưng muốn sống lâu thì phải già chớ sao! Hôm rồi nè, ra Footscray ngồi chễm chệ trên ghế cho ông bạn, thầy hù hớt tóc… Xem dung nhan đó bây giờ ra sao? Vì lâu nay cứ tưởng mình già. Soi gương mới biết quả là y chang! Mặt mày, mắt, môi đế xếp li ráo trọi hè. Muốn phủ định cái già chỉ còn cách đem cái bàn ủi ra ủi mới mong thẳng nếp.
Rồi tóc chỗ hoa râm, chỗ bạc trắng phong trần. Tui thì không tìm cách dấu cái già đi; có sao để vậy người ơi! Vì quan niệm là già thì già tóc, già râu… Mặt già hết ráo cái cần câu không già… là OK ‘Salem’!
Già đâu có tính theo năm tuổi mà phải căn theo cái tánh. Gặp ai, nhứt là những người em xuất sắc trong vai tì nữ, mình cứ mím chi cọp, mỉm miệng cười tình là mình còn trẻ chán. Cho dù mấy em tưởng tui có chút đỉnh về vấn đề tâm thần hay sao mà cười suốt hè?
Mấy em nói sau lưng gọi tui là: “Sugar Daddy’ (Ông già hảo ngọt).
(Mấy em Mít mình tối ngày cứ nằm mơ Hoàng tử cùa lòng em không hè. Gái Úc nầy nó thực tế và thực dụng hơn nhiều: Em chán phải đi làm cực khổ để kiếm tiền nên giờ em đang nhận đơn cho chức danh ‘Sugar Daddy’. Mại dô! Mại dô!)
Đừng có ỷ mình, sanh sau đẻ muộn, tuổi xuân còn hơ hớ, rồi dè bỉu tuổi già! Chớ nghĩ sâu, nghĩ xa… Thời điểm nào đó, ngày nào đó cũng tới, tới phiên mấy em cúp bình thiếc, đua nhau coi cái bộ ngực của em nào thòng tới rún trước?
Cho nên có em đường thương đau đày ải nhân gian, em tính chết phứt cho rồi để con cháu được lãnh tiền bảo hiểm nhân thọ nên đi bác sĩ hỏi trái tim nằm ở đâu? Bác sĩ chỉ trên đầu ngực, phía bên trái. Về nhà, em móc cây súng ra, kê vào đó mà bóp cò nghe cái rầm. Hậu quả là em bị gãy cái chưn!.
Do đó em nào ngạo tui là già dịch, già khoái gặm cỏ non, (Cỏ chát răng đâu còn đủ cứng mà gặm hè?) thì xin cứ tự nhiên; vì tui học theo thi sĩ Hồ Xuân Hương: ‘Chơi xuân kẻo hết xuân đi. Cái già sồng sộc nó thì theo sau!”Còn xuân nên chơi kẻo trễ! mà đã hết xuân rồi, tuổi hạc rồi, còn chơi được thì tại sao không?
Mà không phải cánh đàn ông tụi tui quan niệm phóng khoáng như thế đâu mà cánh phụ nữ, mấy em cũng quan niệm y vậy đó thôi.
Nên có chuyện rằng: Em Sally đi làm ăn xa. Xong công chuyện em lái xe dọc xa lộ xuyên bang để từ Sydney trở lại Melbounre.
Doc đường em thấy một cụ bà đang đi dọc theo con lộ. Đường xa lái xe một mình buồn… buồn ngủ; nên em cũng cần một người bạn đồng hành bèn ngừng xe lại quay kiếng xuống, hỏi: “Cụ ơi! Cụ có cần quá giang không?” Bà cụ không trả lời gì ngoài cái gật đầu.
Cửa mở, cụ bà lên xe ngồi gần Sally. Suốt một đoạn đường dài, bà cụ chỉ im lặng nhìn quanh quất mà không nói gì. Có thể là bà cụ đang mang trong lòng cả một trời tâm sự u uất hổng biết tỏ cùng ai chăng?
Cuối cùng sau khi đưa đôi mắt kèm nhèm, sau cặp kính lão, nhìn quanh, bà cụ dừng lại cái túi giấy màu nâu đặt kế bên Sally, rồi hỏi: “Trong cái túi nầy con gái đựng cái gì?”
“À chai rượu! Con mua nó về làm quà cho ông xã của con” Bà cụ im lặng một lát rồi nói: “Con gái biết mua quà cho chồng lắm đó!”
Nghe tui kể, thằng bạn nhậu của tui lắc đầu quầy, bĩu môi chê: “Chuyện chỉ có vậy ai mà cười cho được chớ?” Té ra cu cậu không có óc hài hước, lẫn trí thông mình! Nhưng cứ mở miệng ra, không suy nghĩ tận tường mà hay chê người khác để chứng tỏ mình khôn!
Tui buộc lòng phải phụ đề Việt ngữ. Chớ một câu chuyện đùa không cần phải cắt nghĩa gì thêm. Cắt nghĩa thêm nó mất cái hay!
Vợ đi xa về mua quà cho chồng đó là chuyện rất bình thưòng. Nhưng tại sao lại mua chai rượu? Đó đó! Cái hay nằm ở chỗ đó. Vì chữ có câu rằng: “Một là rượu lúc ngà ngà. Hai là là những lúc đi xa mới về!”
Bà cụ là người đã kinh nghiệm cùng mình trên tình trường cũng như trên giường, nên buông lời ca ngợi Sally quả còn trẻ mà khôn hết biết. “Nó uống nhưng mình đã! Quá xá đã!”
Mà tại sao bà cụ lại bỏ đi lang thang trên đường hoang vắng vậy? Chẳng qua bà cụ giận đám con cháu của mình. Hôm qua, tụi nó đến chơi nhà thấy cụ ông không mặc quần, tồng ngồng ngồi trên ghế trước cửa, đón gió Đông. Hỏi cớ sự ra làm sao thì Cụ ông trả lời là: “Hôm qua ông Nội cũng ngồi trước cửa và gió Đông tới; tối vào nhà cái cần cổ cứng ngắc hè! Nên bữa nay bà Nội bắt ông phải tồng ngồng ngồi trước cửa đó con!”
***
Nhưng không phải ai già cũng hết xí quách, không còn làm ăn gì được nữa? Nghĩ vậy là lầm. Làm không được; nhưng dòm thì được, cũng còn khoái lắm nên có chuyện vầy:
Mới ba giờ sáng trong một khách sạn năm sao. Cụ bà từ trên lầu chạy xuống như bay kêu cô nhân viên tiếp tân “Lẹ lẹ lên! Lên phòng tôi ngay đi! Tôi mới vừa thấy một ông trần truồng như nhộng nè!”
Cô tiếp tân nghe vậy (không biết có ‘sôi nổi’ lòng ta hay không?) cũng vội vã chạy như bay lên phòng bà cụ, nhìn dáo dác, rồi hỏi: “Đâu đâu! Sao con không thấy” “Nè nhìn qua khung kiếng. Anh ta bên đó!”
Cô tiếp tân nhìn qua căn ‘bin đinh’ đối diên, bên kia đường, thì thấy một anh không mặc áo đang đi vòng trong trong phòng. “Chời ơi tưởng gì! Ảnh chỉ ở trần, chắc chuẩn bị đi ngủ đó mà! Nhưng từ bên nầy nhìn qua cụ chỉ thấy từ vai anh ấy trở lên sao cụ dám cả quyết là anh ta đang ở truồng? Làm con mừng hụt hè!”
“Nè! Đứng lên cái bàn đặt bên cửa sổ, rán nhón chân lên là biết ngay!”
Kết luận: “Ai bảo già, tuổi hạc sắp bay lên trời là buồn tha thiết, buồn hết biết? Nó vui gần chết đó thấy hông?”
Xem thêm : Năm 1789 Có Sự Kiện Gì
đoàn xuân thu.
Melbourne
Nguyễn Văn Bến Nghé!
Tui rất thích cái tựa “Nguyễn Thị Sài Gòn”, tên một bài hát của nhạc sĩ nổi tiếng đấu tranh Việt Dzũng.
Nhưng ‘Thị’ là chữ lót của một người đàn bà, con gái; còn tui là đàn ông, con trai, tất chữ lót phải là Văn; nên tui tự đặt tên mình là: “Nguyễn Văn Bến Nghé”.
Hai cái tên nầy chỉ đối nhau chan chát giữa ‘Thị’ và ‘Văn’. Còn cái họ Nguyễn, người Việt mình nhiều vô số kể, nên mấy em Úc tóc vàng mỏ đỏ ở Melbourne nầy đây muốn dụ dỗ tui ‘tù ti tú tí’, bao giờ cũng gọi tui là “Mít-tờ (Mister) Nguyen!”
Còn Sài Gòn và Bến Nghé (là cái bến mà người ta thường cho trâu, bò ra tắm) chỉ là một mà thôi!
Sài đọc theo âm ‘Prei’, tiếng Khmer, nghĩa là rừng. Gòn là bông gòn. Như vậy Sài Gòn là Rừng cây bông gòn.
Ông bà mình hồi xưa từ miền Trung vào miền Nam khẩn hoang, đến vùng đất mới nào, thấy có nhiều loại cây hơn chỗ khác thì lấy tên loại cây đó đặt tên cho vùng đất mới.
Chính vì vậy mình mới có các địa danh dễ thương như: Gò Cây Mai, Gò Sao, Gò Cây Quéo và Gò Vấp…
Cây Da (miền Bắc gọi là Cây Ða) nổi tiếng với địa danh Cây Da Xà. đường Da Bà Bầu… (Cây Da có nhà bà tên Bầu, chớ hổng phải da của bà đang mang bầu đâu nhe!) gần nhà ông Trường Kỳ nhạc trẻ…
Rồi Cây Ðiệp, Cây Gõ, Cây Vông… đến Chợ Vườn Chuối, Chợ Rẫy, Chợ Ðệm, Chợ Cây Ðiệp…
Kinh rạch cũng mang tên các loài cây như: Rạch Bàng, Rạch Chiếc hay Hóc Môn (Rạch nước nhỏ có cây môn nước) hoặc Mười tám thôn Vườn Trầu, suối Lồ Ô (bà con với cây tre, cây trúc)
***
Nhà thơ Bùi Giáng có câu: “Hỏi rằng: người ở quê đâu? Thưa rằng: tôi ở rất lâu quê nhà!”
Mình đang ở Sài Gòn mà có người hỏi quê đâu? Sanh đẻ ở đây, lớn lên ở đây, mèo chuột gái gú ở đây, bị em yêu bắt làm tù binh, cũng ở đây! Rồi ăn nhậu, tụ bè tụ đảng cũng ở đây thì hỏi quê đâu là sao hè?
Tui cũng ở Sài Gòn khá lâu đó chớ, dù không liên tục nhưng gộp lại trước sau dẫu đứt khúc cũng khoảng 10 năm. Vậy mà hai thằng bạn nhậu nghe tui gáy te te là dân Sài Gòn mà quận Nhứt nữa, tụi nó cứ cười khằng khặc:”Ông chỉ là dân ở trọ đất Sài Gòn. Còn hai thằng tui là sanh đẻ ở Tân Ðịnh nè, là dân Sài Gòn chánh gốc, có trích lục thế vì khai sanh đàng hoàng do Chánh lục bộ của Tòa án cấp.”
Tranh Bảo Huân
Tuy nhiên hỏi phăng ngược lên đời trước nữa thì một đứa có ‘Thầy U’ đi tàu há mồm từ Bắc vào Nam, đứa còn lại có ‘Ba Mạ’ từ Huế, xứ thần kinh, bám xe lửa xuyên Việt vào tới Sài Gòn những năm 40.
Chính vì vậy mà hồi năm 1963, học Ðệ thất ở Petrus Ký, bạn cùng lớp tui không thấy thằng nào vỗ ngực xưng tên là ‘Made in Sài Gòn’ vì đứa nào cũng là dân tứ xứ.
Nhưng đến Sài Gòn là yêu Sài Gòn hè! Như ông nhạc sĩ Y Vân, sanh đẻ tại Hà Nội, vào Nam năm 1952, cũng khoái, nên la làng lên rằng: “Sài Gòn đẹp lắm! Sài Gòn ơi!” La xong còn nhảy ‘twist’ nữa mới đã!
Rồi nhà thơ Nguyên Sa, cũng người Hà Nội, vào Nam rồi cũng cảm nắng Sài Gòn.
“Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát/ Bởi vì em mặc áo lụa Hà Ðông
…Em chợt đến, chợt đi, anh vẫn biết/ Trời chợt mưa, chợt nắng chẳng vì đâu.”
Vâng! Nắng Sài Gòn kinh lắm nhứt là vào đầu mùa Hạ, tháng Sáu, tháng Bảy.
Nhưng được cái là: nắng sớm mưa chiều! Mới nắng đó rồi bất ngờ Trời đế cho một trận mưa rào, ào ào ướt áo em yêu, ướt hết ráo cái áo dài của em may bằng vải Tetoron trắng mỏng dính.
Nên mưa Sài Gòn, (không phải tui tửng tửng với thời tiết gì đâu), là tui che dù, mặc áo mưa, dù đang ở trong nhà tạnh ráo, tui cũng ráng bò ra đường dòm, chắc bà con mình đã biết tại làm sao?
Rồi sau nầy mất nước làm thân lưu lạc, phiêu bạt quê người tới tận Melbourne nầy đây tui vẫn tự nhận mình là người Sài Gòn hè!
Mà nó đâu có chịu nằm im, cứ nhúc nhích hoài, gợi nhớ… nhứt là mỗi độ tháng Tư về.
Do đó khi ông Trịnh Công Sơn hỏi em yêu của ổng là: “Em còn nhớ hay em đã quên?” (Thì tui thấy hỏi vậy là thừa!)
Ông nhạc sĩ nầy sợ em quên, nên nhắc nhỏ em là: “Nhớ Sài gòn mưa rồi chợt nắng/ Nhớ phố xưa quen biết tên bàn chân? Nhớ đèn đường từng đêm thao thức…
…Nhớ đường dài qua cầu lại nối/ Nhớ những con sông nối hai dòng kênh / Nhớ ngựa thồ ngoại ô xa vắng…”
Tuy nhiên đang bùi ngùi thương nhớ Sài Gòn thì nhạc của ổng bỗng chuyển ‘ton’ một cách lãng xẹt hè: “Em ra đi nơi này vẫn thế… Thành phố vẫn có những ước mơ/ Vẫn sống thiết tha/ Vẫn lấp lánh hoa trên đường đi”
Ðang dịu dàng hỏi ‘ní’: “Có nhớ Sài Gòn không? Thì đàn đứt ngang cung, nổi khùng lên: “Em đi thì kệ em chớ! Sài Gòn vẫn thế, còn ngon hơn ngày hổng có em!”
Tới đây là tui không đồng ý với ông nhạc sĩ (gió chiều nào che chiều đó) rồi đó nhe!
Một là Sài Gòn là thủ đô chớ không thành phố (?!)… gì ráo. Hai là: Bên cạnh một Sài Gòn hoa lệ với nhà cao tầng, trang phục hàng hiệu, xe cộ sang trọng là một Sài Gòn lam lũ, nhọc nhằn của những gánh nặng trĩu trịt hai vai của người bán hàng rong, của trẻ ăn xin, bán vé số, vất vả dãi nắng dầm mưa với hy vọng tối nay đi ngủ không phải với cái bụng đói meo.
Tui đi đã mấy chục năm mà chưa trở lại Sài Gòn, nhưng có nghe nói Sài Gòn giờ là một rừng bê tông, cao ốc… Vì CS muốn Sài Gòn giống hịt Singapore.
Úy trời đất ơi! Học cái hay thì học. Học cái ngu thì học làm gì.
Lý Quang Diệu xây cái Singapore trên một làng chài hoang vắng. Còn Sài Gòn có một kiến trúc tuyệt vời đâu phải ai cũng có, người ta thèm muốn chết mà không có được… Sao cứ chơi ngu đập và đập?
Viện lý do quy hoạch như hạch, bèn chặt dãy cây dọc đại lộ Nguyễn Huệ, trên đường Cường Ðể, đốn ngã hàng cây cao trước Quốc Hội ngày xưa…
Thực dân Pháp dẫu xâm chiếm nước ta cũng không đến mức ngu xuẩn và tàn nhẫn như vậy!
Năm 1862, sau khi chiếm Sài Gòn – Gia Ðịnh, Kiến trúc sư Pháp đã thiết kế Sài Gòn là một thành phố Vườn, một Paris nhiệt đới! Sài Gòn có Sở Thú, Vườn Ông Thượng (vườn Bờ Rô hay công viên Tao Ðàn, cũng nó đó đa! )
Ai cũng biết là năm 1868, Tây cất Dinh Norodom cho Thống đốc Nam Kỳ. “Vườn phía sau Dinh của quan lớn dân gọi là “Vườn Ông Thượng”
(Giữa vườn có một sân gạch, nên dân gọi là “Vườn Bờ Rô” (Préau tiếng Pháp, là “sân lót gạch”).
***
Tía tui rất thích chụp hình. Hồi xưa Chủ Nhựt, Tía dắt Má và đám con đi Sở Thú coi khỉ hay đi vườn Bờ Rô chụp hình….
Sau nầy xa quê, ngày anh em tui xúm lại làm đám giỗ Tía Má, đem những cái hình xưa cũ còn giữ trong ‘album’ ra coi.
“Nè cái hình nầy là Má bồng thằng Phương. Tao với anh Nhiên mặc quần ‘sọt’ mang giày ‘săng đan’, đầu chải bảy ba. Còn con Phượng, (em gái kế tui). thì mặc áo đầm tóc quăn (uốn tóc), thoa son môi của Má, vì Ba muốn làm đẹp cho đứa con gái của mình.
Còn thằng Quân trong hình, sao mầy lại khóc?” Thì thằng em tui cười khè khè nói: “Tại lúc đó tui khát nước… mía! He he!”
***
Nhớ Sài Gòn! Nhớ Bến Nghé! Nhớ nhà thơ Nguyễn Ðình Chiểu trong bài thơ ‘Chạy Giặc’ “Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây/ Một bàn cờ thế phút sa tay? Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy/ Mất ổ đàn chim dáo dác bay/ Bến Nghé của tiền tan bọt nước/ Ðồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây…”
Và tui cũng tự hỏi Sài Gòn, Bến Nghé bị CS làm cho tanh bành tí bị như thế nầy mà: “Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng/ Nỡ để dân đen mắc nạn này?”
Xem thêm : Năm 1789 Có Sự Kiện Gì
đoàn xuân thu.
melbourne
Nguồn: https://tipstech.vn
Danh mục: Tin Công Nghệ